Rau cải xoong (Nasturtium officinale hoặc N. microphyllum)
Giới thiệu:
Cải xoong (tên khoa học Nasturtium officinale hoặc N. microphyllum) là một loại thực vật thủy sinh hay bán thủy sinh, sống lâu năm và lớn nhanh, có nguồn gốc từ châu Âu tới Trung Á và là một trong số những loại rau ăn, được con người dùng từ rất lâu. Các loài thực vật này là thành viên của họ cải (Brassicaceae), về mặt thực vật học là có họ hàng với rau tần và rau mù tạc-tất cả chúng đều đáng chú ý vì có mùi vị hăng và cay. Thân của cải xoong trôi nổi trên mặt nước và lá của nó là loại lá phức hình lông chim. Cải xoong sản sinh ra các hoa nhỏ màu trắng và xanh lục, mọc thành cụm.
Nasturtium nasturtium-aquaticum và Sisymbrium nasturtium-aquaticum là các từ đồng nghĩa của N. officinale. Nasturtium officinale thứ microphyllum (Boenn. cũ Reich.) Thellung là từ đồng nghĩa của N. microphyllum (ITIS, 2004). Các loài này cũng được liệt kê trong một số nguồn là thuộc về chi Rorippa, mặc dù các chứng cứ phân tử chỉ ra rằng các loài thực vật thủy sinh với thân rỗng có quan hệ họ hàng gần gũi với Cardamine hơn là so với Rorippa (Al-Shehbaz & Price, 1998). Lưu ý là mặc dù tên khoa học của chi cải xoong là Nasturtium, nhưng chi này không có họ hàng gì với các loài sen cạn trong chi Tropaeolum (họ Tropaeolaceae) mà trong tiếng Anh thông thường người ta cũng gọi là "Nasturtium"
Về trồng trọt cải xoong, trong thực tế, người ta trồng cải xoong ở cả phạm vi lớn lẫn phạm vi trong vườn nhà. Là loại cây (bán) thủy sinh, cải xoong rất phù hợp đối với việc trồng trong nước, phát triển tốt nhất trong nước hơi kiềm. Thông thường người ta trồng nó xung quanh vùng thượng nguồn của các dòng nước chảy qua vùng đá phấn. Tại nhiều thị trường khu vực thì nhu cầu về cải xoong vượt xa khả năng cung cấp. Có điều này là do lá cải xoong không thích hợp cho việc phân phối trong dạng khô và chỉ có thể lưu giữ trong một thời gian ngắn. Nếu mọc hoang dã, cải xoong có thể cao tới 50-120 cm. Người ta cũng bán cải xoong trong dạng cây rau non, trong trường hợp này người ta thu hoạch thân cây ăn được chỉ vài ngày sau khi hạt nảy mầm.
Giá trị dinh dưỡng
Cải xoong có giá trị dinh dưỡng và là thảo dược quan trọng trong điều trị một số bệnh thông thường và ví như ‘thực phẩm chức năng” hỗ trợ điều trị một số bệnh khác. Rau cải xoong có thể chế biến dưới nhiều món ăn khác nhau: cá chép nấu cải xoong, rau trộn thịt bò, cải xoong ôm cá, trộn rau la hán, canh cải la hán, cải xoong xào tỏi, ...Cải xoong chứa một lượng đáng kể sắt, canxi và acid folic cùng với các vitamin A và C. Kết quả phân tích các thành phần hoá học trong 100g rau cải xoong (phần dùng để ăn được) có giá trị dinh dưỡng: nước chiếm 93g, protein 1,7 - 2g, chất béo 0,2 - 0,3g, glucid 3 - 4g, chất xơ 0,8 - 1g, vitamin A, B1, B2, C và nhiều chất khoáng khác. Đặc biệt, lượng iôt trong rau cải xoong rất cao 20 - 30mg/100g; vitamin C cao (40 - 50mg/100g rau)... Nhờ trong rau cải xoong chứa lượng vitamin C cao, lại có vitamine A, B1, B2 nên đã giúp bảo vệ sức khỏe, chống oxy hóa, chống độc, làm tăng sức đề kháng cho cơ thể, chống hiện tượng lão hoá. Ngoài ra, nhiều yếu tố khoáng chất rất dễ hấp thu như canxi, iôt vì chúng đều ở dạng liên kết hữu cơ. Nếu lượng canxi đầy đủ mỗi ngày cho cơ thể là 1.000mg thì sẽ giúp người ta ít mắc bệnh tim và góp phần chống lão hoá. Còn iôt cần cho tuyến giáp để phòng chống bướu cổ, song lượng iôt cần cho cơ thể rất nhỏ chỉ 0,1 - 0,15mg/ngày, nhưng thiếu lại sinh bệnh, như vậy mỗi ngày cần ăn rau cải xoong từ 9 - 10g là đủ lượng iôt trên.
Theo một nghiên cứu ở Anh gần đây, cho biết cải xoong chứa nhiều chất dinh dưỡng: dầu mù tạt (glucosinolates), đặc biệt là gluconasturtiin, hydrolyzed to 2- phenethyl isothiocyanate (PEITC; vitamins A và C; khoáng chất sulphur, iodine, calcium, manganese. Cải xoong còn tươi chứa nước 95.1%; protein 2.3%; lipid toàn phần 0.1%; carbohydrate 1.3%; xơ 1.5%; tro 1.2%. khoángcalcium, 120mg/100g; sắt 20mg/100g; magnesium 21 mg/100g; phosphorus 60 mg/100g; kali 330 mg/100g; natri 41 mg/100g; kẽm 0.11 mg/100g; đồng 0.077 mg/100g; mangan 0.244 mg/100g; selen 0.9 mcg/100g; vitamin C, 43.0 mg/100g; vitamin B1 0.09 mg/100g; B2 0.12 mg/100g; Niacin 0.2 mg/100g; pantothenic acid 0.3 mg/100g; vitamin B6 0.13 mg/100g; folate 9 mcg/100g; vitamin A, 4700 IU; vitamin A, RE 470mcg.
Cải xoong với vai trò thảo dược: tại một số khu vực, cải xoong được coi là cỏ dại nhưng tại những khu vực khác thì nó lại được coi là rau ăn hay cây thuốc. Người ta cũng gán một số lợi ích cho việc ăn cải xoong, chẳng hạn việc nó có tác dụng như một chất kích thích nhẹ, một nguồn hóa chất thực vật, có tác dụng chống ôxi hóa, lợi tiểu, long đờm và trợ giúp tiêu hóa. Cải xoong luộc, nấu canh hoặc trộn dầu dấm đều rất bổ vì có nhiều dược tính đáng quý: do chất senevol, cải xoong có tác dụng tốt cho sự bài tiết của phổi, những người bị tiết đờm ở phổi, viêm phế quản, ho dài ngày có thể dùng cải xoong ép lấy nước uống; nước cải xoong ép có tác dụng trừ giun, sán. Tỷ lệ iốt, canxi trong cải xoong khá cao và dễ hấp thụ, giúp phòng chống bướu cổ, tăng khả năng bảo vệ cơ thể, tăng trao đổi chất các tế bào, chống còi xương, bệnh ngoài da, bệnh xơ cứng động mạch ở người già. Muối khoáng trong cải xoong có khả năng chống thiếu máu, ăn kém ngon miệng, mệt mỏi.
Nhìn chung về kinh điển từ các bài thuốc dân gian và y học hiện đại đã chứng minh rau cải xoong góp phần trong bảo vệ sức khỏe theo các tính năng sau: chống oxy hóa, tinh lọc máu, giải quyết các vấn đề về xương khớp, hô hấp, làm sạch và tiêu độc cơ thể, cảm lạnh, tái phục hồi tế bào, rối loạn tiêu hóa, lợi tiểu, bệnh tuyến giáp, viêm loét miệng, suy nhược cơ thể, còi xương, rối loạn hệ tim mạch, chứng thiếu vitamin,...
Một số bài thuốc được làm từ cải xoong:
Chữa lao phổi: 150g rau cải xoong, 150g phổi lợn đem nấu canh ăn vào buổi sáng. Buổi chiều trộn một nắm rau cải xoong sống với 100g thịt bò xào tái với dấm. Ăn liên tục trong nhiều ngày, món ăn này giúp bồi bổ cơ thể, tăng sức đề kháng, mau lành bệnh;
Chữa sỏi mật, sỏi thận: lấy cải xoong phơi chỗ thoáng mát cho đến khi khô. Mỗi ngày dùng 50g cho vào ấm đất, đổ 3 bát nước sắc còn 1 bát, chia hai lần uống trong ngày (sáng-chiều) và uống khi còn nóng;
Chữa bệnh nhiệt (môi lưỡi bị loét, chảy máu chân răng): rau cải xoong nấu với cà rốt lấy nước uống sẽ khỏi;
Chữa bệnh đái đường: 100g cải xoong, 100g cần tây, 100g củ cải, 100g cà rốt, 100g cải bắp ép lấy nước hoặc giã nát, vắt lấy nước uống. Đây là bài thuốc dân truyền chữa bệnh đái đường rất hiệu quả;
Chữa bí tiểu: lấy rau cải xoong rửa sạch, trộn với dầu vừng (dầu mè) và dấm;
Chữa viêm phế quản mạn tính:150g cải xoong, 50g lá tía tô, 5g gừng tươi. Cho cả 3 thứ vào ấm đất, đổ 3 bát nước, sắc còn 1 bát, chia 3 lần cách nhau 3-4 giờ, uống trong ngày; khi uống phải hâm nóng;
Phòng ngừa các bệnh lý ung thư: ăn cải xoong hằng ngày sẽ giúp bảo vệ cơ thể khỏi các khối u ác tính, đó là kết quả mà các nhà nghiên cứu Anh khẳng định do loại rau này có tác dụng giảm thiểu các nguy cơ gây khuyết tật gen. Các chuyên gia dinh dưỡng cũng cho biết trong số các “siêu thực phẩm” thì rau cải xong, súp lơ xanh có khả năng bảo vệ cơ thể chống lại bệnh ung thư hiệu quả nhất. Nhưng các chuyên gia trong lĩnh vực y học cũng cảnh báo rằng rất nhiều người ngộ nhận rằng những “siêu thực phẩm” này là “thuốc tiên” ngừa ung thư tuyệt đối vì thực chất, nó chỉ có tác dụng giảm thiểu nguy cơ. Kết quả xét nghiệm máu ở những người ăn rau cải xong cho thấy giảm 23% nguy cơ khiếm khuyết DAN ở các tế bào bạch cầu –là các tế bào bảo vệ cơ thể chống lại các ung thư – so với những người có chế độ ăn bình thường.
Rau ngổ (Enhydra fluctuans, họ cúc) # (limnophila aromatica họ hoa mõm chó)
Rau là tên gọi chung của các loại thực vật có thể ăn được dưới dạng lá là phổ biến tuy trong thực tế có nhiều loại ăn hoa, củ, quả cũng có thể gộp chung vào các loại rau. Nhiều loại rau ăn lá trong đó có thể kể đến rau ngót (Sauropus androgynus), rau dền (Amaranthus viridus), rau muống (Ipomoea aquatica), rau cần nước (Oenanthe javanica), rau lang (Ipomoea batatan) v.v. Bên cạnh có loại rau gia vị như rau răm (Polygonum odour), rau ngò om hoặc rau ngổ (Limnophila arbromatica, Enhydra fluctuans), rau tía tô (Perilla ocymoides L.), rau diếp cá (Houttuynia cordata), v.v. Rau ăn quả thuộc họ Bầu bí như bầu (Lagenaria vulgaris), bí đao 9Benincasa hispida). Các loại quả khác như mướp (Luffa cylindrica), dưa leo (Cucumis sativus), mướp đắng (Momordiaca balsammina), cà tím (Solanum melongea), v.v. Rau ăn rễ như ngó sen (Lotus lily) v.v. Rau ăn củ có thể gồm củ cải (Rhapanus sativus), cà rốt (Daucus carota), củ dền (Beta vulgaris)...
Rau ngổ hay cây rau om có tên khoa học: rau om (limnophila aromatica thuộc họ hoa mõm chó) và cây rau ngổ (Enhydra fluctuans, thuộc họ cúc) do miền Nam và miền Bắc gọi khác nhau. Cả 2 đều thuộc loại rau ăn lá vừa có giá trị dinh dưỡng vừa là các vị thuốc quý nếu chúng ta dùng đúng cách và hợp vệ sinh. Nếu không tác dụng nghịch lại. là cây cỏ, mọc bò, thân rỗng giòn, dài 20 -30cm, có nhiều lông, mùi rất thơm, lá nhẵn, mọc đối, không cuống, hơi ôm thân, phần lá gần thân nhỏ lại, mép hơi có răng cưa thưa, hoa mọc đơn độc ở nách lá. Theo tài liệu “Cây thuốc và vị thuốc” của Đỗ Tất Lợi thì có khi lại gọi là rau cần nước (Enhydra fluctuans)- là loại rau cùng họ với cúc mọc ở dưới nước, lá dài, không cuống, mọc đối hay từng ba cái một, sống nổi hay ngập nước, dài hàng mét, thân hình trụ nhẵn, phân cành nhiều, có mắt. Lá mọc đối, không cuống, phái dưới ôm vào thân, mép có răng cưa, dài 5 cm, rộng 6-10 mm.
Rau ngổ cộng to hơn rau om, cao hơn, mùi ít hăng hơn, ít tinh dầu hơn. Loại này không dùng làm gia vị kèm theo ngò gai, húng quế trong các món canh chua mà là xào với thịt bò hay tép, ăn kèm mắm kho, lươn um, giống như dùng rau muống tàu ăn với vịt nấu chao vậy. Rau ngổ có hai loại: ngổ 2 lá (mọc đối) và ngổ 3 lá (mọc vòng). Rau ngổ còn gọi là rau om, thuộc họ hoa mõm sói, là loài cây thảo mập, giòn, rỗng ruột, có nhiều lông. Lá đơn không cuống, mọc đối hay mọc vòng 3, có khi 5 lá, mép lá hơi có răng cưa thưa. Hoa mọc đơn độc ở nách lá. Rau ngổ thường mọc hoang ở ruộng nước, vũng lầy và rất dễ trồng; vị chua cay, hơi se, tính mát, thơm.
Thành phần các chất trong rau ngổ cũng được các nhà khoa học phân tích trên 100g rau ngổ: nước 93%, protid 2.1%, glucid 1.2%, cellulose 2.1%, vitamin B 0.29% và một ít vitamin C và ít tinh dầu. Một số món ăn có giá trị dinh dưỡng được nhân dân thường chế biến như các loại rau gia vị, ăn sống hoặc chế biến thành những món ăn là rau ngổ thịt lợn xào, rau ngổ thịt chó, lẩu cá chua, ăn sống như dạng rau xanh thường dùng trong các bữa cơm gia đình, lươn um rau ngổ,....
Bên cạnh đó, rau ngổ còn có giá trị như loại thảo dược, điều trị hoặc hỗ trợ điều trị (thực phẩm chức năng) nhiều bệnh thông thường. Theo đông y, rau ngổ có tính mát, vị chua cay, hơi se, thơm; có tác dụng kháng viêm, lợi tiểu, giải độc do ngộ độc thức ăn, làm giãn cơ ruột, giãn mạch, tăng lọc ở cầu thận nên thường được sử dụng để trị sỏi thận, tiểu ra máu, chữa băng huyết, trị bệnh ngoài da như herpès mảng tròn, lở ngứa sần da do phát ban. Dân gian còn sử dụng thân và lá rau ngổ tươi sắc uống hoặc nhai nhuyễn nuốt nước còn xác thì đắp lên vết rắn cắn. Ngoài ra, tinh dầu menthol rau ngổ sử dụng ở liều 250-500 mg/trên kg trọng lượng có thể có tác dụng giảm đau là phát hiện mới nhất của các viện bào chế. Một số bài thuốc có mặt vị rau ngổ:
Chữa bệnh đường tiết niệu: rau ngổ có tác dụng lợi tiểu, giảm co thắt cơ trơn, giãn mạch máu, tăng lọc ở cầu thận; do đó làm tăng lượng nước tiểu, tạo điều kiện cho sỏi thận bị tống ra ngoài; cách dùng để chữa sỏi là rau ngổ 50 g, để tươi, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước, pha thêm ít muối, uống làm một lần, ngày hai lần. Dùng 5-7 ngày. Dùng riêng hoặc phối hợp với râu ngô, mã đề, cối xay;
Chữa đái dầm: rau ngổ 20g, mùi tàu 20g, cỏ mần trầu 20g, cỏ sữa lá nhỏ 10g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống sau bữa ăn chiều. Dùng 3-4 lần;
Chữa đái ra máu, băng huyết: rau ngổ 10g, cỏ tháp bút 10g, rễ cỏ tranh 10g, thái nhỏ, phơi khô, tẩm rượu, sao vàng rồi sắc uống làm hai lần trong ngày;
Chữa ban đỏ: rau ngổ 20g, dây vác tía 20g, măng sậy 10g, đọt tre mỡ 10g, rửa sạch, thái nhỏ, sắc uống trong ngày;
Chữa sổ mũi, vết thương, rắn cắn: rau ngổ 20g, xuyên tâm liên 15g, giã nát, thêm ít rượu, vắt lấy nước uống, bã đắp. Để trị rắn cắn, có thể lấy rau ngổ tươi rửa sạch, giã nát, lấy nước bôi và rửa vết thương, sau đó dùng bã đắp vào chỗ rắn cắn (dựa vào đặc tính tiêu viêm, giải độc). Rau ngổ tươi 15-20 g, kiến cò 25 g, giã nát, cho thêm 20-30 ml rượu trắng, chắt lấy nước uống để chữa rắn cắn, còn bã đắp lên vết thương. Rau ngổ 15-30 g sắc lấy nước uống hằng ngày để trị sổ mũi, ho, rau ngổ tươi giã nát, chắt lấy nước cốt bôi lên tổn thương herpes mảng tròn (hoặc bệnh ngoài da); kết hợp nấu nước rau ngổ để rửa hằng ngày.
Giá trị dinh dưỡng và chữa bệnh thì không phủ nhận, Nhưng “giá thể” truyền bệnh cũng nên lưu ý !
Do rau cải xoong và rau ngổ có đặc điểm về hình thể, đặc biệt thân cây, cá, cuống lá,…dễ tạo điều kiện cho mầm bệnh vi khuẩn cũng như một số ấu trùng (giai đoạn có khả năng lây nhiễm) bám dính và coi đó như giá thể truyền bệnh sang người. Chẳng hạn, rau ngổ có đặc điểm là loại cây (cỏ), mọc bò, thân rỗng, dài, nhiều lông, lá nhẵn, mọc đối, hoặc mọc vòng, không cuống, hơi ôm thân, phần lá gần thân nhỏ lại, mép hơi có răng cưa thưa, hoa mọc đơn độc ở nách lá, hoặc dạng cùng họ với cúc mọc ở dưới nước, lá dài, không cuống, mọc đối hay từng ba cái một, sống nổi hay ngập nước, thân hình trụ nhẵn, phân cành nhiều, có mắt, lá mọc đối, mép có răng cưa, dài 5 cm, rộng 6-10 mm. Vi khuẩn và ấu trùng có thể bám dính vào các vị trí thân, lá, răng cưa và mép lá đến khi người tiêu dùng mua chúng về, rửa không sạch, không trôi các vi khuẩn và ấu trùng, xử lý không chín hoặc ăn sống à tạo điều kiện sinh sôi, nhân lên và trưởng thành của vi khuẩn, giun sán à gây bệnh cho người.
Rau ngổ là một trong những nguyên nhân dẫn đến ngộ độc thực phẩm và rối loạn tiêu hóa, do thân có nhiều lông và thường mọc ở ao hồ bị nhiễm bẩn nên dính rất nhiều vi khuẩn mà trong đó có đến 90% là vi khuẩn đường ruột (coliforms). Nghiên cứu cho thấy sau khi rửa nước sạch tổng số vi khuẩn chỉ giảm được 10%, nồng độ coliforms giảm không dưới 5%, ngay cả khi ngâm chloramine nồng độ 0,3 mg/l, ngâm thuốc tím K2MnO4 với nồng độ 1 mg/l trong 30 phút cũng chỉ hạ được nồng độ vi khuẩn xuống không quá 10%. Một thí nghiệm khác được tiến hành trong phòng thí nghiệm Vệ sinh an toàn thực phẩm của Viện Pasteur Nha Trang về xử lý rau cho thấy dùng biện pháp ngâm chloramin nồng độ 0,3mg/l, ngâm thuốc tím K2MnO4 với nồng độ 1mg/l và 10mg/l trong 30 phút cũng chỉ hạ nồng độ vi khuẩn xuống không quá 10%. Có nghĩa là trước khi xử lý thì nồng độ vi khuẩn là 3.000.000/g, sau khi xử lý giảm được 300.000/g. Đối với lá ngổ, việc xử lý tỏ ra khó hơn so với lá mơ. Việc sử dụng máy sục ozon để xử lý các loại rau trên cũng cho kết quả tương tự.
Ở những khu vực mà cải xoong mọc có nhiều chất thải động vật (trâu bò, cừu, dê, …) thì nó có thể là nơi trú ẩn cho các loại động vật ký sinh như sán lá gan cừu Fasciola hepatica, Fasciola gigantica và một số mầm bệnh giun sán khác. Do 2 loại rau này do có rất nhiều lông trên bề mặt lá và thân cũng như diện tích tiếp xúc bề mặt rất lớn à bám dính nhiều vi khuẩn và ấu trùng giun sán.Nên nguy cơ nhiễm bệnh khó tránh khỏi với cộng đồng. Việc phòng bệnh hiệu quả nhất, có lẽ là việc thực hiện ăn uống hợp vệ sinh là quan trọng nhất. .
Tài liệu tham khảo
1.Hội KHKT và an toàn thực phẩm Việt Nam. Thực phẩm và đời sống.
2.http://www.vi.wikipedia.org/ rau
3.http://www.ykhoanet.com/ yhoccotruyen. 6 bài thuốc từ rau ngổ (trích Sức khỏe và Đời sống)
4.http://www.natural standard.com