Thực tế hiện nay có rất nhiều dự án phát triển nguồn nước cần thiết cho sự mở rộng các hoạt động về nông nghiệp và công nghiệp ở nhiều nước đang phát triển. Đây là một vấn đề đã được các nhà ký sinh trùng học quan tâm vì chúng có thể dẫn đến hệ lụy làm cho người dân trong cộng đồng bị nhiễm bệnh sán máng.
Đặc điểm lưu hành bệnh sán máng
Bệnh sán máng (Schistosomiasis) là một trong những bệnh ký sinh trùng phổ biến ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng người dân. Sán máng được lây truyền qua đường nước, bệnh chủ yếu lưu hành ở vùng nông thôn và thường có liên quan đến nghề nghiệp, hay gặp ở những người không có khả năng tránh tiếp xúc được với nước, do lao động bằng nghề trồng trọt, đánh bắt cá hoặc thiếu nguồn nước sạch để ăn uống, giặt giũ và tắm rửa. Khi sinh hoạt bơi lội hoặc chơi đùa, do sức đề kháng thấp và thường tiếp xúc với các nguồn nước bị ô nhiễm nhiều nên trẻ em từ 10 đến 15 tuổi có tỷ lệ bị nhiễm sán máng cao nhất. Ngoài ra, việc di biến động dân cư thường xuyên cũng tạo điều kiện thuân lợi cho bệnh sán máng lây truyển rộng rãi và hiện nay bệnh có nguy cơ xảy ra ngày càng nhiều ở các vùng ven đô thị nên cần có kế hoạch chủ động thực hiện các biện pháp truyền thông giáo dực sức khỏe để phòng ngừa.
Hầu hết người dân trong vùng có bệnh sán máng lưu hành đều bị nhiễm bệnh ở mức độ nhẹ và thường không có biểu hiện triệu chứng nhưng ảnh hưởng của bệnh đối với sức khỏe con người và vấn đề kinh tế khá trầm trọng. Thực tế ở một số khu vực vùng Đông Bắc Braxin, Ai Cập, Sudan... bệnh sán máng đã làm khả năng lao động của người dân tại nông thôn bị giảm sút một cách đáng kể vì cộng đồng dân cư có tình trạng sức khỏe yếu ớt và bơ phờ.
Sán máng có 5 loại khác nhau gây bệnh cho người. Schistosoma mansoni gây bệnh sán máng đường ruột (intestinal schistosomiasis) ở 52 nước tại châu Phi, Trung Cận Đông, vùng Caribe và Nam Mỹ. Schistosoma japonicum và Schistosoma mekongi gây bệnh sán máng đường ruột vùng Đông Á (Oriental Asiatic intestinal schistosomiasis) ở 7 nước châu Á. Schistosoma intercalatum gây bệnh sán máng đường ruột ở 10 nước Trung Phi. Schistosoma haematobium gây bệnh sán máng bàng quang (urinary schismatomiasis) ở 54 nước châu Phi và Trung Cận Đông. Như vậy, sán máng lưu hành và gây bệnh cho người tùy thuộc vào đặc điểm của từng vùng miền. Tại nước ta, bệnh sán máng chưa được các nhà khoa học phát hiện, chúng có thể là bệnh hiếm gặp nhưng không phải là không có. Thực tế cho thấy đã có một số bệnh ký sinh trùng hiếm gặp nhưng mới nổi trong thời gian gần đây nên cần có biện pháp phòng ngừa.
Chu kỳ phát triển của sán và dấu hiệu lâm sàng của bệnh
Người mắc bệnh sán máng là nguồn lây nhiễm bệnh cho cộng đồng. Trứng sán theo phân và nước tiểu của người bệnh được thải ra môi trường bên ngoài. Khi tiếp cận với nguồn nước trong điều kiện thuận lợi, trứng sẽ nở ra thành ấu trùng lông và xâm nhập vào loài ốc nước ngọt thích hợp để ký sinh. Trong cơ thể ốc, ấu trùng lông sinh sản vô tính nhiều lần để hình thành hàng ngàn con ấu trùng đuôi và chui ra khỏi ốc. Ấu trùng đuôi bơi tự do ở trong nước và tìm cách xâm nhập qua da người, tại đây đuôi của nó sẽ rụng đi để vào cơ thể. Trong vòng 48 giờ chúng phải chui được qua da để tiếp cận với mạch máu. Quá trình này gây nên triệu chứng ngứa nhưng hầu hết mọi người không để ý đến. Sau đó, ấu trùng trưởng thành ở các mạch máu nằm sâu trong cơ thể trong khoảng thời gian 6 tuần. Tại đây, ấu trùng sẽ phát triển thành sán đực hoặc sán cái trưởng thành. Trứng sán chỉ phát triển ở những con cái đã được thụ tinh. Con sán đực và cái trưởng thành dính với nhau suốt đời trong khoảng thời gian trung bình dưới 5 năm nhưng có trường hợp kéo dài tới 20 năm. Sán cái có hình thể nhỏ hơn sán đực và luôn luôn nằm trong rãnh phía trước cơ thể sán đực. Mỗi khi trứng được sinh ra thì vòng đời mới lại bắt đầu. Sán trưởng thành sinh sản ra trứng để xâm nhập vào các cơ quan, tổ chức; gây tổn thương ở phổi, gan, lách, ruột, đường tiết niệu. Bệnh sán máng đường ruột do những con sán bám vào mạch máu ở ruột, bệnh sán máng bàng quang do những con sán bám vào mạch máu của bàng quang.
Người bệnh khi đại tiện hoặc tiểu tiện ở gần bờ sông, trứng sán được thải ra môi trường bên ngoài, qua nguồn nước phát triển thành ấu trùng. Khi gặp loại ốc nước ngọt thích hợp, chúng ký sinh và phát triển đến giai đoạn có thể xâm nhập vào cơ thể người khi bơi lội trong nước. Có khoảng một nửa số trứng sán máng đường ruột được thải ra theo phân và một nửa số trứng sán máng bàng quang được thải ra theo nước tiểu; số trứng sán còn lại ký sinh trong cơ thể gây nên tổn thương ở các cơ quan, tổ chức.
Triệu chứng lâm sàng của bệnh sán máng có liên quan đến số lượng và vị trí ký sinh của trứng sán. Chúng không gây nên những phản ứng trong phân và nước tiểu mà chủ yếu gây nên những thương tổn ở mô tổ chức và cơ quan ký sinh.
Bệnh sán máng đường ruột do Schistosoma mansoni, Schistosoma japonicum, Schistosoma mekongi thường phát triển chậm, làm cho gan và lách to dần, thương tổn xuất hiện ở ruột gây ra bởi các vết thương xơ hóa chung quanh những trứng sán nằm trong mô tổ chức này và làm tăng áp lực mạch máu vùng bụng. Sự chảy máu lặp đi lặp lại ở những mạch máu dẫn đến hiện tượng xuất hiện máu ở trong phân và có thể rất nguy hiểm. Schistosoma intercalatum thường nhiễm và gây bệnh ở phần ống tiêu hóa phía dưới.
Bệnh sán máng bàng quang do Schistosoma heamatobium thường gây tổn thương ở ống tiết niệu và có máu xuất hiện ở trong nước tiểu. Người bệnh đi tiểu có cảm giác đau; sau đó bàng quang, niệu quản, thận dần dần cũng bị tổn thương. Ở những bệnh nhân nặng có nguy cơ dẫn đến ung thư bàng quang.
Phòng ngừa mắc bệnh sán máng từ các dự án phát triển nguồn nước
Sự phát triển những nguồn nước là điều kiện để giúp cho việc mở rộng các hoạt động về lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp ở các nước đang phát triển, trong đó có nước ta. Tuy vậy cũng cần chủ động phòng ngừa bệnh sán máng có thể xuất hiện, gây nhiễm bệnh cho cộng đồng người dân sống trong vùng có dự án phát triển nguồn nước. Các nguồn nước gồm những thủy vực, ổ nước với các kích thước khác nhau bao gồm cả những hồ chứa nước, hệ thống thủy lợi do con người tạo ra. Đây là những nơi thích hợp để loài ốc nước ngọt phát triển, sinh sống và làm tăng nguy cơ, mức độ tiếp xúc giữa người với nước bị nhiễm trứng sán, là mầm bệnh được thải ra từ những người bị mắc bệnh.
Trong tiến trình mở cửa, hội nhập quốc tế; mầm bệnh có thể dễ dàng di chuyển từ nơi này sang nơi khác, từ vùng này sang vùng khác, có khả năng ngoại nhập vào đất nước không có bệnh lưu hành thông qua con đường khách đến du lịch rất đa dạng, phong phú của nhiều quốc gia khác nhau, nhiều châu lục khác nhau. Khi có điều kiện thuận lợi, bệnh sẽ phát triển và lưu hành; trong đó bệnh sán máng sẽ đồng hành với các dự án phát triển nguồn nước mở rộng.
Bệnh sán máng và những bệnh khác lây truyền qua đường nước sẽ dựa vào các dự án phát triển nguồn nước được xây dựng, mở rộng để có thể có tác động ảnh hưởng xấu đến tình trạng sức khỏe, điều kiện kinh tế vì người dân bị suy giảm sức lao động, tốn kém chi phí điều trị và chất lượng cuộc sống. Đồng thời vấn đề này cũng có thể làm chậm quá trình hoàn thành dự án nếu công nhân xây dựng và người dân ở địa phương bị nhiễm bệnh sán máng. Hiện nay, ngay từ thời điểm dự án phát triển nguồn nước được thiết kế, có thể chủ động thực hiện các biện pháp phòng chống. Cần xét nghiệm và điều trị cho tất cả người dân sinh sống trong khu vực dự án, những người lao động làm việc trong dự án phát triển nguồn nước, gia đình họ và những người dân nhập cư... để làm giảm nguy cơ bệnh sán máng phát triển và lưu hành vì bệnh sán máng đang trở thành một vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng. Phải thực hiện quản lý tốt các nguồn nước, những nơi có nguy cơ cao, cần thiết có thể sử dụng thường xuyên chất diệt nhuyễn thể để hạn chế phạm vi phân bố và mật độ hoạt động của loài ốc nước ngọt. Nếu khả năng lây truyền bệnh lúc ban đầu triển khai thực hiện các dự án phát triển nguồn nước càng thấp thì cơ hội và điều kiện để bệnh phát triển, lưu hành càng nhỏ.
Biện pháp ngăn ngừa và phòng chống bệnh
Biện pháp ngăn ngừa bệnh tốt nhất là tự bảo vệ cá nhân khỏi bị nhiễm mầm bệnh khi đi du lịch đến các vùng có bệnh lưu hành. Về nguyên tắc, điều này có thể thực hiện được bằng cách tránh tiếp xúc với nguồn nước không bảo đảm an toàn. Vấn đề cần thiết đòi hỏi con người phải có sự hiểu biết về nguy cơ khi tiếp xúc với nguồn nước, sự hiểu biết về những thủy vực mà ở đó hiện diện loài ốc nhiễm bệnh có thể sinh sống... Đối với những người sống trong vùng bệnh lưu hành, việc tránh tiếp xúc với nguồn nước là điều không thể tránh được như người làm ruộng, đánh bắt cá... hoặc khó lòng ngăn ngừa như trẻ em bơi lội, chơi đùa với nước bị ô nhiễm.
Việc phòng chống bệnh ở những ổ bệnh được biết rõ có sự lây truyền bệnh có thể thực hiện được bằng cách áp dụng một biện pháp hay kết hợp nhiều biện pháp như tăng cường phát hiện và điều trị những người có nguy cơ bị nhiễm bệnh, cải thiện các phương tiện vệ sinh bảo đảm an toàn và có thể chấp nhận được đối với các chất thải của con người như phân, nước tiểu; cung cấp hệ thống nước sạch; giảm sự tiếp xúc với nguồn nước bẩn và phòng chống ốc nước ngọt truyền bệnh.
Ở những vùng có bệnh sán máng lưu hành thấp và vừa, có dịch vụ y tế hoạt động tốt, chỉ cần tăng cường công tác phát hiện bệnh và điều trị những người mắc bệnh, đây có thể là biện pháp phòng chống có hiệu quả kinh tế nhất. Ở những nơi bệnh lưu hành nặng, chiến dịch phòng chống sán máng được đặc biệt triển khai bao gồm cả các biện pháp phòng chống ốc; đây là một giải pháp có hiệu quả kinh tế cần bổ sung. Sự cải thiện môi trường có thể duy trì trong một thời gian dài cần dựa vào việc cung cấp nước sạch và vệ sinh hoàn cảnh. Truyền thông giáo dục sức khỏe cũng là vấn đề cần thiết giúp cho cộng đồng người dân hiểu biết và tham gia vào việc sử dụng hợp lý nguồn nước, tiếp tục duy trì bảo dưỡng các phương tiện vệ sinh và phương tiện cấp thoát nước.
Khuyến nghị
Mặc dù bệnh sán máng chưa được các nhà khoa học và nhà ký sinh trùng học phát hiện tại Việt Nam nhưng loại sán máng Schistosoma japonicum lại phân bố khá rộng rãi ở Trung Quốc. Thực tế ghi nhận các ổ dịch sán máng đã được phát hiện dọc theo thung lũng sông Mê Kông và ở Thái Lan cũng đã xuất hiện bệnh này. Hơn nữa đa số các dòng sông ở khu vực Đông Nam châu Á đều có phần hạ nguồn chảy qua lãnh thổ Việt Nam và nhiều vùng lưu vực thượng nguồn của các dòng sông chảy từ Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia là những vùng có bệnh sán máng lưu hành nên nguy cơ xâm nhập mầm bệnh vào nước ta từ dòng nước để gây bệnh là vấn đề cần được cảnh báo.
Ngoài ra hiện nay tại nước ta, các dự án phát triển nguồn nước để phục vụ cho vấn đề nông nghiệp và công nghiệp được đang được triển khai, mở rộng ở một số vùng miền; loại ốc nước ngọt là vật truyền bệnh sán máng đã có sẵn tại chỗ; chỉ cần chờ mầm bệnh sán máng xâm nhập vào nội địa qua những dòng sông và những người du lịch có mang mầm bệnh đem đến sẽ tạo điều kiện thuận lợi để bệnh sán máng xuất hiện và lưu hành. Nên cảnh báo, chủ động phòng ngừa trước khi đã quá muộn vì bệnh ký sinh trùng thường dễ bịlãng quên theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)