1. Tác nhân virus
Cytomegalovirus (CMV)
Cytomegalovirus (CMV) là một loại virus thuộc nhóm virus herpes hiếm khi lây truyền qua truyền máu. Theo Trung tâm Centers for Disease Control and Prevention (CDC), khoảng 50-85% số người trưởng thành tại Mỹ nhiễm trùng CMV vào tuổi 40. Nhiễm trùng CMV thường nhẹ nhưng nó có thể nghiêm trọng hoặc thậm chí tử vong trên các đối tượng suy giảm miễn dịch. Đặc biệt nguy cơ trên các sinh ra nhẹ cân và các bệnh nhân có cấy ghép tủy xương hay ghép tạng. Nếu một bệnh nhân có nguy cơ cao mắc bệnh nhiễm trùng CMV, máu xét nghiệm âm tính với CMV có thể truyền được. Như một sự lựa chọn, máu được sàng lọc kiểm tra để giảm số lượng tế bào bạch cầu là các loại tế bào mang CMV, khi đó sẽ giúp bảo vệ bệnh nhân khỏi nhiễm trùng CMV từ việc truyền máu.
Viêm gan
Viêm gan là bệnh lý đầu tiên được đề cập liên quan đến lây truyền qua truyền máu. Nhiều thực hành lâm sàng hiện tại để giảm nguy cơ y tế bệnh lý do truyền máu, kể cả phòng chống viêm gan. Virus gây viêm gan, có thể chia thành hai nhóm: các loại virus gây liệu trình mạn tính có thể lây qua khâu truyền máu như virus viêm gan B và C và các loại virus khác gây viêm gan cấp tính và hiếm khi lây truyền qua truyền máu (viêm gan virus A và E).
Viêm gan virus A (HAV) nhiễm trùng hiếm khi xảy ra qua con đường truyền máu; chúng thường lan rộng nhanh chóng do nguồn nhiễm từ thức ăn và nước uống. Khoảng 23.000 ca được báo cáo mỗi năm tại Mỹ, nhưng các nhà dịch tễ học ước tính rằng virus gây nhiễm đến 150.000 người Mỹ mỗi năm. Viêm gan virus A rất lưu hành tại các quốc gia đang phát triển, kể cả Mexico và một số nơi vùng Caribbe. Vì các kháng thể chống HAV hiện diện khoảng 20% trong quần thể, nên nhiều người không có tiền sử viêm gan, nên người ta cho rằng có thể đã nhiễm nhưng không được nhận ra. Một số báo cáo rải rác tại Mỹ có liên quan đến nhiễm trùng HAV có liên quan đến việc truyền máu, nhưng một ít có thể làm để ngăn ngừa sự xuất hiện hiếm hoi này. Một vaccine gần đây đã phát triển để phòng bệnh viêm gan HAV thay thế globulin miễn dịch vì một biện pháp phòng bệnh tiền phơi nhiễm đối với những người có nguy cơ cao nhiễm trùng, dù vấn đề sau khi phơi nhiễm đang tiếp tục nghiên cứu.
Lây truyền virus viêm gan B (HBV) hiếm vì thường xuyên xét nghiệm thường quy máu để sàng lọc virus viêm gan B như các chỉ điểm phân tử HBsAg và kháng thể hepatitis B core antibody, trên các đối tượng cho máu và trì hoãn nguy cơ nhiễm HBV và sử dụng chỉ những người cho máu tình nguyên. HBV là một nguyên nhân chính gây viêm gan cấp tính và mạn tính. Mỗi năm tại Mỹ, ước tính có khoảng 30.000 người nhiễm virus HBV. Hơn 10.000 bệnh nhân nhập viện và trung bình có khoảng 350 bệnh nhân chết vì căn bệnh này. Có một ước tính có khoảng khoảng 750.000 – 1.000.000 người mang HBV nhiễm trùng mạn tính tại Mỹ. Khoảng 25% số người mang virus trở thành viêm gan hoạt động và có thể tiến triển thành xơ gan. Ước tính khoảng 4.000 người chết mỗi năm vì xơ gan có liên quan đến viêm gan siêu vi B và hơn 800 người chết vì ung thư gan có liên quan đến viêm gan siêu vi B. Số ca nhiếm trùng HBV tại Mỹ đang giảm xuống vì áp dụng tiêm chủng vaccine ngừa viêm gan B do các nhân viên y tế và trẻ em trong độ tuổi đi học theo xu hướng và phạm vi toàn cầu.
Sàng lọc máu đối với những người cho máu để kiểm tra HBV bắt đầu năm 1969 và trở nên thường quy vào năm 1972. Vào giữa những năm 1970, xét nghiệm toàn bộ các trường hợp tình nguyện cho máu điều này giúp giảm số ca và tỷ lệviêm gan virus B có liên quan sau khi truyền máu đến 0.3 và 0.9%. Từ 1982 – 1985, khoảng 3% số ca viêm gan siêu vi B tại Mỹ có liên quan đến truyền máu. Trong giai đoạn từ 1986 - 1988, tỷ lệ số ca có liên quan đến truyền máu giảm còn 1%, có thể như một hậu quả vấn đề sàng lọc máu để xác định nguy cơ tăng cao nhiễm HIV nữa. Vào năm 2000, tỷ lệ viêm gan virus B sau truyền máu ước tính tỷ lệ là 1/137.000 đơn vị máu.
Viêm gan virus C trước đây được biết là viêm gan non-A, non-B được phát hiện vào những năm 1980 và tất cả người cho máu đều được sàng lọc kể từ năm 1990. Viêm gan HCV cấp thường nhiễm trùng nhẹ và hầu hết bệnh nhân họ không hề biết là họ nhiễm; tuy nhiên, HCV trở nên nhiễm trùng mạn tính trong 80% số người nhiễm. Trên các vùng quần thể chung, 1,8% dân số có bằng chứng nhiễm HCV. Trong khi tỷ lệ nhiễm HCV mới đang giảm nhanh chóng do thay đổi hành vi và sàng lọc máu, HCV là một nguồn tác nhân gây nhiễm quan trọng dẫn đến bệnh lý gan mạn tính, điều này thường phát triển qua nhiều năm sau khi phơi nhiễm lần đầu tiên với virus.
Sàng lọc kháng thể bắt đầu từ năm 1990 và các xét nghiệm thực hiện nâng cao một cách ý nghĩa. Vào năm 1999, xét nghiệm NAT testing được bổ sung vào danh mục xét nghiệm của Mỹ. Sau dó hơn 10 năm xét nghiệm đối với HCV, nguy cơ lan truyền HCV qua khâu truyền máu nhỏ hơn 1/1.000.0000 đơn vị máu sàng lọc.
Virus HIV (Human Immunodeficiency Virus)
Lây truyền virus HIV qua con đường truyền máu, đây là loại virus gay căn bệnh thế kỷ AIDS, kể từ khi các ngân hàng máu bắt đầu kiểm tra tất cả những người cho máu và hiến phủ tạng để ghép cũng như phỏng vấn các đối tượng đó về hành vi nguy cơ và các xét nghiệm nhằm sàng lọc từ đó đến nay đã sẵn có. Các xét nghiệm kháng thể HIV, ra đời và sử dụng đã qua nhiều lần cải thiện về tính chính xác. Bắt đầu vào năm 1999 test thử nghiệm dựa vào nucleic acid amplification testing (NAT) đã được dùng để phát hiện trực tiếp chất liệu di truyền của virus HIV trong máu và ước tính hiện tại là có ít hơn tỷ lệ 1/1.900.0000 thành phần máu có thể lây truyền HIV. Các chuyên gia về truyeemf máu trong y học vẫn đang tiếp tục nghiên cứu các công nghệ và kỹ thuật mới để tiến tới làm giảm lan truyền virus HIV. Chẳng hạn các công nghệ đang phát triển gồm các phương pháp giết chết virus trong máu người cho hay còn gọi là làm bất hoạt virus và các chế phẩm của máu.
Human T Lymphotropic Virus I, -II (HTLV-I, -II)
HTLV-I và II là các loại virus không liên quan đến virus HIV. HTLV-I tìm thấy chủ yếu ở Sphias tây Nam Nhật Bản và các đảo Caribbe. Các virus có thể gây bệnh ở hệ thần kinh trung ương và trong các bệnh về máu trong một số nhỏ người nhiễm (< 5% nguy cơ). HTLV-II lại lưu hành chủ yếu tại châu Mỹ và có thể cũng là nguyên nhân không thường xuyên gây tăng nhạy cảm nhiễm trùng sau đó. Cả hai loại virus này mặc dù hiếm, song cũng đã tìm thấy trong máu người cho máu ở Mỹ vào những năm 1980. Một số ít người nhiễm phải virus HTLV như một hậu quả của việc truyền máu, nhưng vì nguy cơ truyền máu thấp cho thấy vào những năm 1980, nên các test phát hiện kháng thể HTLV-I đã phát triển và cho ra nhanh chóng để áp dụng; các test này cũng phát hiện nhiều nhưng không phải là tất cả trường hợp nhiễm HTLV-II. Các test được thiết kế một cách đặc biệt để phát hiện các hai loại virus này giwof đây đã sẵn có và sử dụng tại các trung tâm huyết học truyền máu sàng lọc các tình hình cho máu hay ghép tạng.
West Nile Virus (WNV)
West Nile virus (WNV) lan rộng qua vết đốt do muỗi và virus này có thể nhiễm cho người, ngựa, nhiều loại chim và các động vật khác. WNV lần đầu tiên được phát hiện tại Mỹ vào năm 1999 và kể từ đó được phát hiện tiếp tục nhiều nơi nữa tại Mỹ. Các ca bệnh đầu tiên được báo cáo nhiễm virus WNV thông qua ghép tạng và cơ quan và truyền máu và được quan tâm chú ý vào năm 2002. Các triệu chứng phổ biến hay gặp nhất của ca bệnh do truyền qua đường máu của virus WNV là sốt và nhức đầu. Giai đoạn ủ bệnh tiền lâm sàng là từ 2 - 14 ngày sau khi bị đốt bởi muỗi nhiễm bệnh. Khoảng 80% số người nhiễm virus WNV vẫn không có triệu chứng, trong khi 20% số ca còn lại phát triển và biểu hiện triệu chứng nhẹ, gồm có sốt, nhức đầu, đau mắt, đau mình mẩy, khó chịu vùng dạ dày ruột và đôi khi có ban đỏ trên da và sưng phồng hạch lympho. 1/150 đến 1/200 nguowif nhiễm virus này phát triển thành thể bệnh nghiêm trọng có thể dẫn đến tử vong.
FDA hiện đang cho phép chương trình quốc gia triển khai điều tra ca bệnh bằng loại test nucleic acid tests (NAT) để sàng lọc máu để phát hiện West Nile virus (WNV), cho đến khi các test được cấp phép FDA trở nên sẵn có. Các trung tâm huyết học thiết lập các biện pháp cảnh báo và bảo vệ cho người cho máu và nhận máu khỏi loại virus WNV, gồm giữ đông các thành phần máu trước khi bắt đầu mùa truyền bệnh của muỗi.
Mặc dù có ít dữ liệu về tình trạng nhiễm trùng tự nhiên loại virus WNV, các giai đoạn trì hoãn được khuyến cáo là dựa trên giai đoạn virus trong máu được biết là dài nhất (độ dài thời gian của virus vẫn còn tồn tại trong dòng máu), với khoảng an toàn cho phép như thế nào và ai sẽ được hoãn lại?
·Một người cho máu tiềm năng đã được chẩn đoán nhiễm trùng WNV (gồm chẩn đoán dựa vào triệu chứng và kết quả xét nghiệm sẽ hoãn trong vòng 120 ngày.
·Một người cho máu hay thành phần máu có tiềm năng liên quan lây truyền virus WNV qua đường máu sẽ xem xét trong vòng 120 ngày kể từ ngày cho máu;
·Những người cho máu được khuyến khích báo cáo về các bệnh lý gây sốt sau cho máu mà không rõ nguyên nhân có các triệu chứng nhức đầu hoặc các triệu chứng khác nghi nhiễm trùng virus WNV xảy ra trong vòng 1 tuần sau khi cho máu.
Nhiễm tác nhân ký sinh trùng
Tác nhân Babesia
Babesiosis là một bệnh nhiễm ký sinh trùng mang bởi các con chuột chân trắng và truyền bởi các vết tick đốt. Nó xuất hiện đầu tiên ở vùng đông bắc của Mỹ, tại các vùng ven biển là nơi ở của các chuột chân trắng. Các ca bệnh cũng được xác định tại vùng tây bắc Thái Bình Dương và vùng bờ tây phía trên của Mỹ. Khoảng 30 ca có liên quan đến truyền máu đã được báo cáo tại Mỹ.
Trong khi bệnh babesiosis thường biểu hiện tương đối nhẹ, một số bệnh nhân, kể cả bệnh nhân không có lách, người già hay suy giảm miễn dịch có thể có nguy cơ nhiễm trùng nặng hoặc tử vong. Không có test hiệu quả nào sẵn có để sàng lọc người cho máu về tác nhân này, mặc dù chiến lược xét nghiệm kiểm tra đã phát triển và thảo luận rồi. Đơn vị AABB đòi hỏi tất cả mọi người cho máu đều được yêu cầu nếu họ có tiền sử bệnh babesiosis. Các cá nhân đó có một tiền sử bệnh thường xuyên cho máu.
Tác nhân Trypanosoma spp.
Một bác sĩ người Brazil tên là Carlos Chagas đã khám phát ra bệnh Chagas cách nay gần 100 năm.
Bệnh này gây ra bởi loài ký sinh trùng và đã có số liệu lây nhiễm lên đến 18 triệu người trên toàn thế giới. một khi nhiễm trùng xảy ra thì sẽ kéo dài. Mỗi năm, vài ngàn người Nam Mỹ và Trung Mỹ chết vì các vấn đề tiêu hóa cũng như tim mạch do căn bệnh này sinh ra. Đến 20% số người nhiễm ký sinh trùng này không biểu hiện triệu chứng.
Nhiễm trùng này hiếm gặp ở Mỹ, nhưng vì quần thể dân trên toàn cầu tăng lên gần đây, nên những cá nhân từ các quốc gia nơi mà bệnh này phổ biến. Đến nay, chỉ có khoảng 5 ca được báo cáo về bệnh Chagas lây truyền qua con đường truyền máu tại Bắc Mỹ. Tổ chức Hiệp hội các ngân hàng máu của Mỹ (American Association of Blood Banks_AABB) yêu cầu các trung tâm huyết học truyền máuhọc nên tránh những ca bệnh Chagas cho máu nếu phát hiện ra và xét nghiệm nên có chiến lược sàng lọc và phát triển để ngăn ngừa bệnh này lây qua con đường truyền máu.
Bệnh Lyme
Mặc dù các ca bệnh liên quan đến truyền máu chưa được báo cáo, song các cơ quan y tế công cộng và Hội các ngân hàng máu Mỹ đang giám sát bệnh vì các thay đổi có thể làm thay đổi đến tính an toàn trong truyền máu bị ảnh hưởng. Bệnh Lyme có liên quan đến đốt người do một số loài ve tick ký sinh ở người và các động vật có vú và có thể gây bệnh, rồi ảnh hưởng trên nhiều cơ quan khác nhau trong cơ thể.
Người cho máu hoặc hiến tạng có tiền sử mắc bệnh Lyme có thể hiến máu sau khi đã dùng liệu trình kháng sinh đủ liều và không còn bất cứ triệu chứng nào khác nữa.
Sốt rét
Từ năm 1958 – 1998, trung tâm CDC ghi nhận có 103 trường hợp mắc sốt rét do truyền máu. Các ca này hầu như từ các người cho máu mà họ cảm thấy khỏe mạnh và không biết họ dang mang ký sinh trùng sốt rét. Mặc dù, cực kỳ hiểm tại Mỹ, song sốt rét có thể gây nên các hâu jquar nghiêm trọng, gồm có tử vong. Hiện không có một quy trình thực hành lâm sàng để sàng lọc sẵn có vì thế khâu Hội các ngân hàng màu ở Mỹ (American Association of Blood Banks_AABB) đòi hỏi các trung tâm máu cần xem xét từ những người có tiến sử đi vào vùng sốt rét trong nhiều năm qua hoặc người vừa đi khỏi vùng sốt rét trong 3 năm qua.