Bệnh nấm ở mũi và mắt do một loại nấm thuộc lớp Phycomycetes được đặt tên là Rhinosporidium seeberi gây nên. Sau này dựa vào sinh học phân tử, nấm được xếp vào lớp Mesomycetozoea, chúng ở ranh giới giữa nấm và động vật đơn bào. Bệnh được lây nhiễm qua bụi và nước bẩn; tuy nhiên nấm vẫn chưa phân lập được trong tự nhiên. Vì vậy cần cảnh giác để phòng tránh.
Đặc điểm của nấm gây bệnh ở mũi và mắt
Loại nấm gây bệnh ở mũi và mắt do nhà khoa học Malbran phát hiện lần đầu tiên vào năm 1892 ở Arhentina. Sau đó nhà khoa học Seeber vào năm 1900 mô tả tác nhân gây bệnh và xem đây là một loại đơn bào, lớp trùng bào tử (Sporozoa). Tiếp theo đó vào năm 1923, nhà khoa học Ashworth kết luận tác nhân gây bệnh là một loại nấm thuốc lớp Phycomycetes và đặt tên là Rhinosporidium seeberi. Với sự phát triển của kỹ thuật khoa học, gần đây qua kết quả nghiên cứu về lĩnh vực sinh học phân tử, loại nấm Rhinosporidium seeberi được xếp vào lớp Mesomycetozoea, chúng ở ranh giới giữa nấm và động vật đơn bào. Bệnh nấm ở mũi và mắt lưu hành khắp nơi trên thế giới, thường gặp ở Ấn Độ, Sri Lanka; ngoài ra còn gặp ở Nam Mỹ, châu Phi, Đông Nam Á... Tỷ lệ bệnh xảy ra ở nam cao hơn nữ khoảng gấp 4 lần; trẻ em kể cả người trưởng thành đều có thể mắc bệnh. Đường lây nhiễm bệnh chưa rõ, một số nhà khoa học cho rằng nấm xâm nhập qua niêm mạc bị tổn thương. Do bệnh gặp nhiều nhất ở mũi và mắt nên có khả năng nguồn gây nhiễm là đất, nước; thường thấy ở những người lặn xuống sông lấy cát, tắm lội ở nước ao hồ tù đọng... Tuy vậy, các nhà khoa học vẫn chưa phân lập được nấm từ môi trường tự nhiên. Bệnh nấm ở mũi và mắt không lây nhiễm từ người sang người, những người cùng sống với bệnh nhân không thấy bị mắc bệnh. Một số trường hợp ghi nhận chồng bị nhiễm nấm loại nấm này ở vùng sinh dục không lây nhiễm cho vợ.
|  |
Bệnh nấm Rhinosporidium seeberi ở mũi (ảnh internet) | Bệnh nấm Rhinosporidium seeberi ở mắt (ảnh internet) |
Bệnh do nấm Rhinosporidium seeberi gây nên
Nấm Rhinosporidium seeberi gây viêm hạt mãn tính, tạo thành những khối u dạng polyp ở niêm mạc và da; bệnh do loại nấm này gây nên gọi là Rhinosporidiosis.
Bệnh ở niêm mạc: Nấm làm niêm mạc bị tổn thương, tăng sinh tế bào tạo thành những polyp mềm, dễ nát, đỏ tím, chia thùy, nhiều mạch máu, không có cuống; trông giống như quả dâu tây, có thể thấy những điểm trắng, ít đau, tiến triển chậm.Tổn thương hay gặp ở niêm mạc mũi, kết mạc mắt; do có nhiều mạch máu và mềm nên khối polyp dễ bị chảy máu; dần dần chúng lan vào trong niêm mạc mũi, hốc mũi gây nên hiện tượng khó thở. Đôi khi polyp chèn ép làm tắc họng, thực quản và thanh quản. Bệnh nhân thường không có triệu chứng toàn thân và có thể kéo dài đến 30 năm. Ngoài ra, bệnh cũng có khả năng gây tổn thương màng tiếp hợp, niêm mạc sinh dục giống như sùi mào gà; sự thương tổn ở hậu môn và niệu đạo hiếm gặp hơn.
Bệnh ở da: Bệnh chỉ xuất hiện khi bệnh nhân đã bị nhiễm nấm Rhinosporidium seeberi máu hoặc niêm mạc thông qua hệ thống hạch, tuy nhiên rất ít gặp. Trong trường hợp bệnh xảy ra ở tai, vòi nhĩ hay lòng bàn chân; các tổn thương thường có dạng u sùi có chân, gồ cao trên mặt da.
Chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh
Chẩn đoán bệnh căn cứ vào triệu chứng lâm sàng và kết quả xét nghiệm. Về lâm sàng, phát hiện thấy mặt của polyp nhiễm nấm có những điểm trắng. Về xét nghiệm, có thể xét nghiệm trực tiếp bằng cách lấy dịch tiết hoặc phết áp xét nghiệm trong potassium chloride (KOH). Ngoài ra, có thể chẩn đoán giải phẫu bệnh bằng cách sinh thiết khối u nhuộm GMS (Gomori methanamine silver), PAS (periodic acid Schiff) hoặc H&E (hematoxylin và eosin); trên tiêu bản có thể thấy những nang bào tử (sporangia) kích thước có thể lên tới 350µm; trong nang có chứa nhiều bào tử (sporangiospore) có kích thước từ 6 đến 9µm. Có thể thấy những nang bào tử tự do khi nang bị vỡ. Đối với kỹ thuật nuôi cấy, nấm rất ít mọc trên môi trường Sabouraud. Điều trị bệnh nấm ở mũi và mắt do nhiễm nấm Rhinosporidium seeberi chủ yếu dùng phẫu thuật cắt bỏ, có thể dùng thủ thuật đốt điện. Các loại thuốc chống nấm ít có tác dụng, có thể tiêm thuốc chống nấm amphotericin B tại chỗ. Tuy vậy, bệnh thường hay tái phát nhiều lần. Phòng bệnh tích cực bằng cách tránh nhiễm bụi và không nên bơi lội ở những chỗ ao tù nước đọng.