Hiện nay các món ăn được chế biến từ từ ếch, nhái, chim, rắn ... ở quán ăn, nhà hàng được xem là đặc sản và rất được nhiều người ưa chuộng. Riêng ếch đã có các món hấp dẫn như ếch chiên bơ, ếch xào sả ớt, ếch nướng mọi, ếch xào măng, ếch bóp hành tây, cháo ếch... nói chung là rất nhiều, chưa kể đến nhái, chim, rắn ... Nếu ếch được chế biến không cẩn thận, thịt chưa được nấu chín kỹ thì khi ăn, ấu trùng sán nhái ký sinh ở thịt ếch xâm nhập vào người để gây bệnh. Sán nhái (Diphyllobothrium erinacei) gây nên bệnh cho con người ở giai đoạn ấu trùng. Vì vậy ăn thịt ếch nhái chưa được nấu chín, nguy cơ bị mắc bệnh ấu trùng sán nhái là điều không thể tránh khỏi.
Đặc điểm ấu trùng sán nhái gây bệnh
Bệnh ấu trùng sán nhái thường gặp ở Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Australia, châu Phi, châu Mỹ La Tinh ... và một số nước ở châu Âu nhập khẩu thịt ếch, nhái, rắn từ các nước khác đến. Sán nhái (Diphyllobothrium erinacei) thường gây bệnh cho con người ở giai đoạn ấu trùng. Ấu trùng có dạng hình sâu (plerocercoid), có tên riêng là Sparganum, bệnh gây nên gọi là Sparganose. Bệnh sán nhái là bệnh của súc vật. Vật chủ chính và nguồn gây nhiễm bệnh là những động vật ăn thịt như chó, mèo và các loài sống hoang dại. Sán nhái trưởng thành sống ký sinh ở ruột non của các động vật đó. Sparganum là tên gọi chung các ấu trùng có dạng nang hình sâu của các loài Spirometra. Loài Sparganum mansonoides phổ biến ở Mỹ, Sparganum mansoni lưu hành ở vùng Đông Nam Á, Sparganum proliferum hiếm gặp hơn.
Ấu trùng sán nhái Sparganum giống như dải băng hẹp màu trắng ngà, mờ đục. Chiều dài từ 3-50 cm. chiều rộng chỉ vài mm. Phần cuối phía trước to và có một đường rãnh. Về hình thể, không xác định được đầu, không có các tổ chức nội tạng. Tuy vậy, dưới sự phóng đại của kính hiển vi có thể thấy những hạt vôi hóa, ống bài tiết, thớ cơ và dây thần kinh trong chất đệm nhu mô xốp. Thành cơ thể bao gồm lớp vỏ được bao phủ bằng lớp nhung mao, hai lớp cơ và một hàng tế bào vỏ hướng xuyên tâm. Bề mặt trên của vỏ xuất hiện đốt giả như cơ ngang.
Chu kỳ phát triển và gây bệnh của ấu trùng sán nhái
Sán nhái đẻ trứng rơi vào nước, trứng bị những loài phù du, giáp xác (cyclops) ăn, nó là vật chủ phụ thứ nhất của sán. Sau đó loài phù du, giáp xác này bị ếch, nhái, rắn hoặc chim ăn. Những loài này trở thành vật chủ phụ thứ hai của sán. Khi ký sinh ở vật chủ phụ, ấu trùng ở dạng sâu (plerocercoid) dài khoảng vài cm, màu trắng ngà, không chia đốt, không có đầu (scolex) ở phía trước, chỉ có ống giác giả. Con người có thể trở thành vật chủ phụ thứ hai trong các trường hợp như uống nước mất vệ sinh, có những loài phù du, giáp xác (cyclops) đã bị nhiễn sán; ăn phải thịt ếch, nhái, rắn, chim ... còn sống, chưa được nấu chín kỹ; từ đây ấu trùng sán nhái đột nhập vào ống tiêu hóa, chui vào thành dạ dày, ruột và tạo thành u ở đó. Ngoài ra, một số tập quán sinh hoạt còn lạc hậu ở vùng thôn quê Việt Nam như người dân có quan niệm cho rằng đau mắt đỏ là do “bốc hỏa”, nếu dùng thịt ếch nhái sống là chất mát, lạnh đắp vào mắt để “hạ hỏa” thì bệnh sẽ khỏi; việc làm thiếu khoa học này tạo điều kiện thuận lợi cho ấu trùng sán nhái xâm nhập vào da, mắt gây u ở mắt, làm cho bệnh nhân có thể bị mù. Một số các trường hợp khác ít gặp hơn là con người còn có thể bị nhiềm ấu trùng sán nhái do rửa mặt bằng nguồn nước có loài phù du, giáp xác bị nhiễm ấu trùng.
Khi người là vật chủ phụ thứ hai bị ấu trúng sán nhái xâm nhập và ký sinh sẽ gây bệnh. Triệu chứng bệnh phụ thuộc vào nơi ấu trùng có dạng hình sâu (plerocercoid) ký sinh. Nếu ký sinh ở mắt sẽ gây đau, chảy nhiều nước mắt, viêm sưng màng tiếp hợp, mi mắt, mí mắt ... Nếu ký sinh ở da thì gây ngứa, nổi mẩn, thâm nhiễm chung quanh chổ ký sinh trùng ký sinh, đôi khi người bệnh thấy có cảm giác ấu trùng đang di chuyển. Một số các trường hợp đã phát hiện thấy ấu trùng sán nhái có dạng hình sâu (plerocercoid) ở vùng màng ruột, thận, bàng quang, phổi, xoang ngực, tim và mô não. Khi ấu trùng sán nhái xâm nhập sâu vào bên trong các nội tạng thì tiên lượng bệnh sẽ rất nặng.
Chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh
Trên lâm sàng, chẩn đoán xác định bệnh ấu trùng sán nhái chắc nhắn khi phẩu thuật phát hiện và lấy được ấu trùng. Điều trị bệnh cũng bằng phẩu thuật để bóc tách, loại bỏ ấu trùng. Nếu không mổ được thì dùng thuốc Novarsenol 0,3g - 0,45g /kg cân nặng/ngày, điều trị trong 45 ngày. Thuốc Praziquantel và Mebendazole không có tác dụng diệt ấu trùng của ký sinh trùng.
Để đề phòng không bị mắc bệnh ấu trùng sán nhái, cần truyền thông giáo dục sức khỏe, vận động cộng đồng người dân không nên uống nước lã chưa đun sôi, không ăn các loại thịt ếch, nhái, rắn, chim ... chưa được nấu chín kỹ. Ở vùng nông thôn cần bỏ tập quán lạc hậu dùng thịt ếch, nhái sống đắp vào mắt để chữa bệnh mắt đỏ. Ngoài ra nên sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh trong sinh hoạt hàng ngày.
Khi vào quán ăn, nhà hàng, mọi người cần thận trọng khi gọi thức ăn hoặc đối diện với các món ăn được chế biến từ thịt ếch, nhái, rắn, chim ... với sự nghi ngờ nhà bếp chưa nấu chín kỹ để đề phòng bị mắc bệnh ấu trùng sán nhái. Cần chú ý “Thích ăn thịt ếch nhái ... dễ bị bệnh sán nhái”.