Thực hiện Quyết định số 1636/QĐ-BGDDT ngày 3/4/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thành lập Hội đồng đánh giá nghiệm thu cấp Bộ Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ, ngày 4/5/2007, Trường Đại học Tây Nguyên đã tiến hành nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ và đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệpcác bệnh giun truyền qua đất" mã số: B 2002-30-07 do PGS.TS Nguyễn Xuân Thao-Hiệu trưởnglàm chủ nhiệm; đề tài được tiến hành trong 3 năm (từ tháng 9/2003-9/2006) tại 3 xã thuộc hai huyện/thị TP Ban Mê Thuột và huyện KrôngPak (Dak Lak).
Đề tài bao gồm 5 mục tiêu: xác định tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất tại các điểm nghiên cứu, xác định mức độ thiếu máu ở những đối tượng nhiễm giun móc/mỏ; xác định kiến thức, thái độ, thực hành của người dân trong phòng chống bệnh giun truyền qua đất; xác định một số yếu tố nguy cơ nhiễm giun truyền qua đất và đánh giá hiệu quả một số giải pháp can thiệp. Các mục tiêu đề ra được sắp xếp logíc, khoa học phù hợp với tên của đề tài và cũng là những mục tiêu cần nghiên cứu cho Chương trình phòng chống bệnh giun sán hiện nay. Đây là đề tài có tầm quan trọng và cần thiết vì các bệnh giun truyền qua đất (giun đũa, tóc,móc/mỏ) hiện vẫn đang phổ biến ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới gây nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe con người, đặc biệt làtrẻ em. Việt Nam cũng là nước có tỷ lệ nhiễm bệnh ở cộng đồng rất cao, vì vậy công tác phòng chống bệnh này cần được ưu tiên để hạn chế tác hại của bệnh. Đak Lak là một trong những tỉnh Tây Nguyên có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, kinh tế khó khăn, điều kiện vệ sinh môi trường chưa tốt, tập quán sinh hoạt và canh tác lạc hậu nên có tỷ lệ nhiễm bệnh cao. Tuy nhiên hiện nay các bệnh giun truyền qua đất vẫn được xem như căn bệnh "bị lãng quên“ và chưa được quan tâm thỏa đáng; vì vậy, nghiên cứu của tác giả là hết sức cần thiết nhằm góp phần xác định tỷ lệ nhiễm bệnh, xác định một số các yếu tố nguy cơ của bệnh và hiệu quả của các biện pháp can thiệp để khống chế bệnh giun truyền qua đất.
Về hình thức, kết cấu bố cục nội dungbáo cáo khoa học: Hình thức báo cáo khoa học được trình bày đúng theo quy định của một đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ gồm các bản tóm tắt tiếng Việt và tiếng Anh, nội dung chính của đề tài, mục lục, các chữ viết tắt, danh mục các bảng, biểu và hình minh họa. Kết cấu bố cục nội dung báo cáo khoa học hợp lý với 112 trang không kể tài liệu tham khảo gồm các phần:
Đặt vấn đề (2 trang), Chương1: Tổng quan (30 trang), Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu (17 trang), Chương 3: Kết quả nghiên cứu (34 trang), Chương 4: Bàn luận (26 trang), Kết luận và đề nghị (3 trang). Ngoài ra báo cáo có 66 tài liệu tham khảo (51 tài liệu tiếng Việt và 15 tài liệu tiếng Anh); 4 phụ lục về mẫu Phiếu điều tra KAP, mẫu Phiếu xét nghiệm phân, thông tin chi tiết về khí hậu và thổ nhưỡng khu vực nghiên cứu cùng một số hình ảnh minh họa.
Về phần tổng quan:Tác giả đã trình bày khái quát những nội dung liên quan đến đề tài như lịch sử nghiên cứu, dịch tễ học; tình hình nhiễm các bệnh giun truyền qua đất trên thế giới, Việt Nam và Tây Nguyên; tác hại của giun đũa, giun tóc và giun móc/mỏ đối với cơ thể con người; các thuốc điều trị và biện pháp hòng chống bệnh.
Về phương pháp nghiên cứu: Địa điểm nghiên cứu được tiến hành tại hai huyện/thị Ban Mê Thuột và Krông Pak (tỉnh Đak Lak) với những điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội tương đương là tiền đề cho việc so sánh và đánh giá hiệu quả của các biện pháp can thiệp. Đối tượng nghiên cứu có cả đồng bào Kinh, Mường, Ê Đê là cần thiết để có thể triển khai ứng dụng rộng hơn các giải pháp can thiệp cho đồng bào thiểu số. Phương pháp chọn cỡ mẫu, tiêu chuẩn đánh giá, so sánh đối chứng-nghiên cứu rất khoa học với các phương pháp chuẩn mực như nghiên cứu ngang mô tả, nghiên cứu can thiệp; ngoài ra tác giả còn nghiên cứu môi trường và hố xí của cộng đồng để khẳng định thêm yếu tố nguy cơ nhiễm bệnh. Về thiết kế nghiên cứu tác giả chọn nghiên cứu cắt ngang mô tả và can thiệp công đồng có đối chứng là đầy đủ để có thể mô tả thực trạng nhiễm giun truyền qua đất và chứng minh được hiệu quả của các biện pháp can thiệp. Tác giả đã sử dụng các phương pháp phân tích số liệu với các test thống kê thích hợp và chính xác, có tính khoa học và thuyết phục cao.
| |
| Hội đồng đánh giá nghiệm thu cấp Bộ Đề tài | khoa học và công nghệ cấp Bộ làm việc |
Về kết quả nghiên cứu và bàn luận: Tác giả đã trình bày kết quả rất khoa học, sắp xếp theo từng mục tiêu cụ thể và logic, có các biểu đồ hoặc hình ảnh minh hoạ rõ ràng. Kết quả đánh giá tình trạng nhiễm giun ở 3 xã trước khi tiến hành các biện pháp can thiệp là nội dung quan trọng làm cơ sở cho việc so sánh trước-sau, can thiệp-đối chứng được tính toán theo các phương pháp thống kê, xác định p thích hợp cho thấy tỷ lệ nhiễm giun trong cộng đồng rất cao 53,1%; trong đó giun đũa 29%, giun móc/mỏ 49,6%. Qua đánh giá một số chỉ số huyết học ở nhóm người nhiễm giun móc/mỏ phát hiện tỷ lệ thiếu máu rất cao (91% có Hb <120g/L).Kết quả điều tra kiến thức, thái độ và hành vi (KAP) của các nhóm dân tộc về nhiễm giun đũa, tóc, móc/mỏ cho thấy 23-68% người dân không biết đúng tác hại, nguyên nhân nhiễm bệnh, các biện pháp phòng chống và nguyên nhân gây ô nhiễm trứng giun ra môi trường. Kết quả phân tích theo tỷ suất chênh OR cho thấy có sự liên quan giữa tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất với các yếu tố uống nước lã, đi chân đất, phóng uế xung quanh nhà, không rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh là những yếu tố nguy cơ chính ảnh hưởng đến mức độ nhiễm giun tại khu vực nghiên cứu. Hiệu quả của biện pháp can thiệp: Điều trị Albendazole 400 mg làm sạch trứng sau 21 ngày với tỷ lệ cao đối với giun đũa (EA: 92%, EK: 92%) và giun móc/mỏ (EA:91%, EK: 82%), tuy nhiên tỷ lệ sạch trứng thấp hơn (30%) với nhóm dân nhiễm giun tóc. So sánh nhóm tuổi 3-14 tuổi cho thấy tỷ lệ nhiễm giun giảm ở các xã can thiệp: xã EA từ 29,7% xuống 14,6%; xã EK từ 34,7% xuống 9,8%. Trong khi đó xã đối chứng tỷ lệ theo dõi điều tra cơ bản lần đầu là 26,6% và lần sau là 26,3% không thay đổi về tỷ lệ nhiễm. Kết quả cũng cho thấy can thiệp điều trị kết hợp giáo dục sức khỏe ở EA có hiệu quả hơn trong việc làm giảm tỷ lệ nhiễm giun (9,8% nhiễm giun sau 2 năm can thiệp). Hiệu quả làm giảm tỷ lệ nhiễm giun ở người lớn cũng tương tự ở lứa tuổi trẻ em, sau 2 năm can thiệp biện pháp tỷ lệ nhiễm giun đũa và giun móc/mỏ giảm rõ rệt. Kết quả chứng tỏ tác giả đã tiến hành đạt 5 mục tiêu nghiên cứu của đề tài đặt ra, đặc biệt là đã xác định được một số yếu tố nguy cơ dẫn đến nhiễm giun ở cộng đồng. Phần bàn luận có so sánh với các kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước một cách khoa học dựa trên mục tiêu và kết quả đạt được trong phân tích tình hình nhiễm bệnh giun truyền qua đất.
Đề tài của tác giả có giá trịkhoa học và thực tiễn cao; không chỉ là tài liệu cho các nhà chuyên môn tham khảo, mà còn cung cấp các dữ kiện cần thiết về thực trạng, các yếu tố nguy cơ nhiễm giun truyền qua đất cũng như các biện pháp can thiệp có hiệu quả ở cả nước nói chung và Tây Nguyên nói riêng. Các điểm kết luận có đủ cơ sở khoa học do bám sát các kết quả nghiên cứu đã đạt được và phù hợp với mục tiêu đề ra. Đề tài có khả năng áp dụng vào chương trình quốc gia phòng chống bệnh giun sán, góp phần làm giảm tải gánh nặng bệnh tật tại cộng đồng.