Ngày 28/5/2008, Sở Khoa học & Công nghệ tỉnh Khánh Hòa đã tổ chức nghiệm thu chính thức đề tài nghiên cứu khoa học “Điều tra sự phân bố của quần thể muỗi Anopheles và ký sinh trùng sốt rét ở khu vực suối Dót-Hòn Bà, huyện Diên Khánh” do CN. Nguyễn Thái Bình-Trung tâm Phòng chống sốt rét tỉnh Khánh Hòa chủ trì thực hiện theo đơn đặt hàng của tỉnh nhằm có cơ sở phát triển du lịch ở khu vực này. So với đề cương được duyệt báo cáo đã thực hiện đúng theo nội dung nghiên cứu, phần kết quả và kết luận cũng phù hợp với 2 mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.
Kết quả điều tra muỗi Anopheles tại khu vực nghiên cứu đã thu thập được19 loài, có sự hiện diện cả 2 véctơ truyền bệnh chính là An.minimus và An.dirus; trong đó An.dirus chiếm 46,81% so với tổng số cá thể. Nghiên cứu đã chứng minh thành phần loài và số lượng cá thể giảm dần theo độ cao A1 (< 500m) : 19 loài, 3.119 cá thể ; A2 (500-1000m) : 8 loài, 431 cá thể ; A3 (1000-1500m) : 3 loài, 9 cá thể ; A4 (> 1500m) : không phát hiện được muỗi Anopheles. Xác định An.dirus phát triển quanh năm, cao vào mùa mưa (tháng 11) có vai trò truyền bệnh chính ở khu vực này với tỷ lệ nhiễm thoa trùng 0.95% bằng kỹ thuật mổ trực tiếp và 2,24% bằng kỹ thuật ELISA; tỷ lệ nhiễm An.dirus theo độ cao A1 (1,50%), A2 (2,14%), A3 (25%) ; còn nhậy cảm hoàn toàn với Alphacypermethrin và Lamdacyhalothrin (100%); hoạt động đốt mồi suốt đêm đỉnh cao vào 21-22 giờ. Bắt đượcbọ gậy của 11 loài Anopheles ở 5/7 thủy vực điều tra, trong đó thủy vực thích hợp với sự phát triển của Anopheleslà vũng nước đọng 2 bên bờ suối và vũng nước đọng trên đường.
Kết quả điều tra ký sinh sốt rét tại khu vực nghiên cứu xác định tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét là 5,54% ; P.falciparum chiếm tỷ lệ 68,93%, P.vivax chiếm tỷ lệ 31,37% trong cơ cấu chủng loại KSTSR. Nhóm nguy cơ nhiễm KSTSR cao là người dân tộc Rac Lây 7,30% cao hơn người Kinh 6 lần ; ngủ rẫy 7,17% cao hơn các nhóm khác 8 lần ; giới nam 7,02% cao hơn nữ 2,5 lần liên quan đến nghề nghiệp thường xuyên vào vùng sốt rét lưu hành.
 |
Bs.Võ Văn Lượng - Ủy Viên Hội đồng khoa học- công nghệ nhân xét đề tài |
Những năm gần đây, hiệu quả Chương trình mục tiêu phòng chống sốt rét đã làm giảm thấp số chết và số mắc sốt rét, không để dịch sốt rét xảy ra trong cả nước. Tuy nhiên ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên nguy cơ sốt rét còn cao, tập trung vào các nhóm dân di cư tự do, dân đi rừng ngủ rẫy, dân giao lưu biên giới ở các vùng có vector truyền bệnh chính cũng như mầm bệnh ký sinh trùng sốt rét còn tiềm ẩn. Trong đó tỉnh Khánh Hòa có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho bệnh sốt rét phát triển quanh năm và cộng đồng dân tộc Rắc Lây có tập quán du canh, ngủ rẫy vào mùa truyền bệnh sốt rét; có thói quen không nằm màn và ít tiếp cận các dịch vụ y tế do kiến thức về PCSR còn hạn chế do đóvề cơ bản đề tài đã đáp ứng được yêu cầu 2 mục tiêu nghiên cứu đặt ra.Các thuật chọn mẫu, tính toán xử lý thống kê và kỹ thuật nghiên cứu sử dụng trong đề tài theo đúng qui trình chuẩn của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng và Tổ chức Y tế thế giới nên có tính khoa học và độ tin cậy. Trong thực trạng sốt rét ở khu vực nói chung và tỉnh Khánh Hòa nói riêng, báo cáo có tính khoa học và thực tiễn, thiết thực góp phần đề xuất các biện pháp can thiệp phòng chống sốt rét phù hợp với đặc điểm địa phương.
Mặc dù tác giả và nhóm nghiên cứu đã có nhiều nỗ lực thực hiện đề tài, nhưng còn thiếu kinh nghiệm trong logic báo cáo và trình bày kết quả; mặt khác số liệu tài liệu tham khảo quá ít, không có tài liệu tham khảo nước ngoài nên khi viết tổng quan cũng như bàn luận thể hiện tầm nhìn chưa sâu rộng, chưa phản ảnh được hết nội dung nghiên cứu đã đề ra.Chưa bám sát vào đề cương nghiên cứu nên kết cấu đề tài chưa chặt chẽ, nhất là một số nội dung ghi nhận trong kết quả nghiên cứu, nhưng lại không được đưa vào kết luận. Các phản biện và thành viên Hội đồng đã đóng góp nhiều ý kiến cụ thể về nội dung nghiên cứu cũng như cách trình bày giúp chủ nhiệm đề tài sửa chữa nâng cao chất lượng đề tài.  |
Toàn cảnh buổi nghiệm thu đề tài |
Hội đồng nghiệm thu đánh giá cao sự nỗ lực của tác giả cùng nhóm nghiên cứu, về cơ bản đề tài đã hoàn thành mục tiêu cũng nhưnội dung nghiên cứu đề ra và đề nghị cho phép nghiệm thu sau khi được chỉnh sửa hoàn thiện theo ý kiến đóng góp của Hội đồng.