Ngày 12/9/2008, Dự án Quỹ toàn cầu phòng chống sốt rét Việt Nam (VGF Malaria) đã tổ chức Hội thảo điều chỉnh hướng dẫn chẩn đoán và điều trị sốt rét sau 2 năm thực hiện để đáp ứng thực trạng sốt rét hiện nay và phù hợp với hướng dẫn mới của Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
Đến dự Hội thảo có Lãnh đạo và chuyên viên điều trị của ba Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng, chuyên gia WHO tại Việt Nam cùng các chuyên gia điều trị thuộc Trung tâm Bệnh nhiệt đới TP. Hồ Chí Minh, Bệnh viện Chợ Rẫy TP. Hồ Chí Minh, Bệnh viện Nhiệt đới Bạch Mai-Hà Nội, Viện Quân y 108, Trường Đại học Y Hà Nội.
Trong phần thảo luận Hội thảo đề nghị điều chỉnh một số nội dung trong Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét đã ban hành ngày 31/1/2007 như sau:
Về quy định chung:
Để tránh nhầm lẫn trong chẩn đoán các trường hợp bệnh nhân sốt rét lâm sàng (nghi ngờ mắc bệnh sốt rét) do không được xét nghiệm máu hoặc xét nghiệm máu âm tính với ký sinh trùng sốt rét hoặc chưa có kết quả xét nghiệm cần đồng thời có đủ 4 điều kiện: hiện đang sốt (³ 37,50C) hoặc có sốt trong vòng 3 ngày gần đây; không giải thích được nguyên nhân gây sốt khác; đang ở hoặc qua lại vùng sốt rét trong vòng 9 tháng gần đây; điều trị bằng thuốc sốt rét có đáp ứng tốt trong vòng 3 ngày.
|
PGS.TS.Lê Xuân Hùng-Phó Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương phát biểu khai mạc Hội thảo. |
Các đối tượng được cấp thuốc tự điều trị bao gồm người đi vào vùng sốt rét trên một tuần (đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới, du lịch…).
Về danh mục thuốc sốt rét thiết yếu:
Hội thảo đã thống nhất không đưa CV8 viên vào danh mục thuốc sốt rét, còn các loại thuốc sốt rét khác vẫn giữ nguyên như trước đây.
Artesunate (viên nén, viên đạn trĩ, lọ tiêm) mặc dù vẫn đưa vào danh mục thuốc sốt rét thiết yếu nhưng không được phép điều trị đơn thuần mà cần phối hợp với một thuốc sốt rét có tác dụng hiệp đồng khác nhằm tăng hiệu lực điều trị (ACTs).
Về chẩn đoán bệnh sốt rét:
Điều chỉnh cơn sốt không điển hình bao gồm sốt không thành cơn như ớn lạnh, gai rét (hay gặp ở người sống trong vùng sốt rét lưu hành); sốt liên tục hợac dao động trong 5-7 ngày đầu rồi thành cơn (hay gặp ở trẻ em, bệnh nhân bị sốt rét lần đầu).
Điều chỉnh một số dấu hiệu dự báo sốt rét thể ác tính và một số chỉ số đánh giá trong chẩn đoán xác định bệnh sốt rét thể ác tính.
Về điều trị bệnh sốt rét:
 |
Các đại biểu tham dự Hội thảo |
Các phác đồ phối hợp có gốc Artemisinine sử dụng (Dihydroartemisinine + Piperaquine), Coartem, Artesunate đơn thuần phối hợp với Doxycycline hoặc Clindamycine.
Các trường hợp điều trị thất bại muộn do dùng DHA + P được thay thế bằng Quinine sulfate phối hợp với kháng sinh (Doxycycline hoặc Clindamycine); các trường hợp thất bại điều trị sớm do dùng DHA + P được thay thế bằng Quinine dihydrochloride tiêm bắp hoặc truyền tĩnh mạch.
Y tế thôn buôn được phép cho bệnh nhân sốt rét thể ác tính uống ngay thuốc Dihydroartemisinine + Piperaquine (không dùng Artesunate đơn thuần) hoặc Artesunate viên đạn hậu môn và đưa ngay bệnh nhân đến Trạm Y tế xã.  |
| GS.Bùi Đại đóng góp ý kiến tại Hội thảo |
Quinine liều tải (loading dose) 20 mg/kg 8 giờ đầu chỉ được phép sử dụng khi bệnh nhân chưa được dùng Quinine trước đó.
Điều chỉnh một số nhận định đánh giá mức độ biến chứng và cách xử trí biến chứng do sốt rét ác tính.
Tiểu ban điều trị sốt rét của Chương trình Quốc gia phòng chống sốt rét và Tổ thư ký có trách nhiệm tập hợp các ý kiến Hội thảo và gửi cho các đại biểu tham dự Hội thảo thống nhất ý kiến đóng góp lần nữa trước khi trình Bộ Y tế cho phép ban hành.