Về phía Tập đoàn Novartis có bà Isabelle Helen Anne Monique, Giám đốc chương trình toàn cầu, Novartis Thụy Sĩ, BS. Nguyễn Thị Ngân Anh, Giám đốc Y khoa nghiên cứu lâm sàng, Novartis Việt Nam, DS. Hồ Thị Thúy Hồng, Trưởng bộ phận Nghiên cứu lâm sàng, Novartis Việt Nam. Đại diện Đơn vị Nghiên cứu Lâm sàng Đại học Oxford (OUCRU) tại Việt Nam có TS.BS. Nguyễn Hoàng Châu, Trưởng nhóm nghiên cứu, ThS.BS. Nhữ  Thị  Hoa, Nghiên cứu viên chính. Về phía Viện Sốt rét - KST - CT Quy Nhơn có TS. Huỳnh Hồng Quang, Phó Viện trưởng, cán bộ Phòng khám chuyên khoa và Phòng Quản lý khoa học công nghệ.
 Tại buổi làm việc, TS.BS. Huỳnh Hồng Quang, Phó Viện trưởng, thay mặt Lãnh đạo Viện giới thiệu về Viện và tình hình các bệnh ký sinh trùng tại Việt Nam, đặc biệt là bệnh sán lá gan lớn (Fascioliasis) trong 5 năm gần đây. Từ năm 2018-2022, số ca mắc bệnh sán lá gan lớn ở người duy trì ổn định, thậm chí có dấu hiệu tăng dưới sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Đáng chú ý, tổng số ca mắc trong giai đoạn này cao hơn gấp hai lần so với tổng số ca ghi nhận trong 10 năm trước đó (2008-2017), cho thấy mức độ lưu hành bệnh vẫn đáng báo động. 
Hiện nay, Triclabendazole (EgatenTM) là loại thuốc duy nhất được Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo trong điều trị bệnh sán lá gan lớn ở người, với khả năng diệt cả ký sinh trùng ở giai đoạn sán non và trưởng thành. Hơn30 năm qua, Triclabendazole (TCBZ) đã được nghiên cứu với nhiều phác đồ và liều lượng khác nhau tại nhiều khu vực trên thế giới, chứng minh hiệu quả và tính an toàn. Tuy nhiên, cần có thêm các nghiên cứu cập nhật để tối ưu hóa việc sử dụng thuốc và hạn chế nguy cơ kháng thuốc.
 Nghiên cứu CEGAB2404 có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá tính an toàn, khả năng dung nạp và hiệu quả của TCBZ trong điều trị bệnh sán lá gan lớn, đặc biệt tại các khu vực có tỷ lệ lưu hành cao như Việt Nam. Ngoài ra, biến đổi khí hậu đang góp phần mở rộng vùng lưu hành của bệnh tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Do đó, kiểm soát bệnh không chỉ dựa vào điều trị ca bệnh mà cần một cách tiếp cận toàn diện theo mô hình One Health, bao gồm kiểm soát vật chủ trung gian, cải thiện điều kiện vệ sinh và nâng cao nhận thức cộng đồng nhằm giảm nguy cơ nhiễm và bùng phát bệnh trong tương lai.Với thực trạng trên, TS.BS. Quang đề nghị nhà tài trợ xem xét hỗ trợ nghiên cứu về hiệu quả của TCBZ trong điều trị quy mô rộng hơn tại các vùng bệnh đang lưu hành có chiến lược dựa vào cộng đồng, hướng tới mục tiêu kiểm soát và loại trừ bệnh sán lá gan lớn tại Việt Nam.
 
Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đón tiếp đoàn công tác Tập đoàn Dược phẩm Novartis và Đơn vị Nghiên cứu Lâm sàng Đại học Oxford đến thăm và làm việc
TS.BS. Huỳnh Hồng Quang, Phó Viện trưởng thay mặt Ban Lãnh đạo Viện giới thiệu về Viện và tình hình các bệnh ký sinh trùng tại Việt Nam, đặc biệt là bệnh sán lá gan lớn (Fascioliasis) trong 5 năm gần đây.
 Bên cạnh đó, Phó Viện trưởng TS.BS. Quang cũng đề xuất hỗ trợ nghiên cứu đánh giá hiệu quả và hiệu lực của albendazole (Albenza®) trong điều trị bệnh giun truyền qua đất (STHs) bằng chiến lược can thiệp dựa vào cộng đồng vì trong thời gian hơn 20 năm qua sử dụng với số lượng lớn, quy mô rộng, đa mục đích nhưng chưa có đánh giá hiệu quả liệu có giảm đi theo thời gian dùng thuốc hay không. Hiện nay, STHs vẫn đang lưu hành phổ biến tại các vùng miền Trung–Tây Nguyên, đặc biệt ở nhóm dân cư dễ bị tổn thương và vùng có điều kiện vệ sinh kém.Trong hơn một thập kỷ qua, chưa có nghiên cứu nào tại Việt Nam đánh giá hiệu quả của albendazole trong điều trị STHs, trong khi tình trạng kháng thuốc đã được ghi nhận tại Tiểu vùng Sông Mê Kông mở rộng (GMS). Điều này đặt ra nhu cầu cấp thiết về các nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị và nguy cơ kháng thuốc, từ đó hỗ trợ các Chương trình Phòng chống Quốc gia triển khai hiệu quả các chiến lược của TCYTTG, hướng tới mục tiêu loại trừ bệnh giun truyền qua đất trong cộng đồng.
 TS.BS. Nguyễn Hoàng Châu, Trưởng nhóm nghiên cứu ký sinh trùng, Đơn vị Nghiên cứu Lâm sàng Đại học Oxford (OUCRU) tại Việt Nam, trình bày tổng quan về Nghiên cứu CEGAB2404 cũng như tiến độ thu tuyển bệnh nhân. Các nội dung trình bày bao gồm:
 - Quy trình xét duyệt nghiên cứu lâm sàng tại Việt Nam;
 - Quy trình thử nghiệm lâm sàng;
 - Kiểm định và đánh giá chất lượng nghiên cứu;
 - Quy trình xét nghiệm và theo dõi bệnh nhân;
 - Vai trò của các bên tham gia.
 Nghiên cứu CEGAB2404 đã trải qua hai lần kiểm định chất lượng và đều đạt kết quả tốt:
 - Tháng 6/2022: Bộ Y tế Việt Nam kiểm tra;
 - Tháng 10/2024: Novartis toàn cầu kiểm tra nội bộ
 TS.BS. Nguyễn Hoàng Châu, Trưởng nhóm nghiên cứu ký sinh trùng, Đơn vị Nghiên cứu Lâm sàng Đại học Oxford (OUCRU) tại Việt Nam, trình bày tổng quan về Nghiên cứu CEGAB2404 cũng như tiến độ thu tuyển bệnh nhân.
 Sau phần trình bày, các chuyên gia và cán bộ Viện đã thảo luận về chiến lược tuyển bệnh năm 2025 và đặt câu hỏi liên quan đến nghiên cứu, bao gồm: Hướng dẫn điều trị cho phụ nữ mang thai nhiễm sán lá gan và Chính sách điều trị bệnh sán lá gan tại các quốc gia khác trên thế giới.Ngoài ra, đoàn chuyên gia đã tham quan và trao đổi chuyên môn với các nghiên cứu viên tại Đơn vị Nghiên cứu Dịch tễ học lâm sàng vàcác phòng thí nghiệm chuyên sâu của Viện, bao gồm Phòng thí nghiệm nuôi cấy ký sinh trùng sốt rét; Phòng thử nghiệm thuốc in vitro, Phòng nghiên cứu sinh học phân tử và Phòng khám bệnh 
 Đoàn công tác Novartis và OUCRU thăm Đơn vị Nghiên cứu Dịch tễ học Lâm sàng.
Đoàn công tác Novartis và OUCRU chụp hình lưu niệm tại Khoa Ký sinh trùng.
 Đoàn công tác Novartis và OUCRU thăm Labo sinh học phân tử. 
 Nghiên cứu CEGAB2404 không chỉ mở rộng phạm vi nghiên cứu về bệnh ký sinh trùng, đặc biệt là bệnh lây truyền từ động vật sang người và bệnh mới nổi, mà còn tạo điều kiện thúc đẩy hợp tác khoa học, tối ưu hóa nguồn lực công nghệ. Đồng thời, nghiên cứu ưu tiên đào tạo nhân lực chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập và mở rộng quan hệ hợp tác trong nước, quốc tế, hướng đến mục tiêu phòng chống và loại trừ bệnh ký sinh trùng trong tương lai.
 TS.BS.Huỳnh Hồng Quang tặng quà lưu niệm cho trưởng đoàn công tác.
 Đoàn công tác chụp hình lưu niệm cùng lãnh đạo Viện. 
TS. Huỳnh Hồng Quang, ThS. Huỳnh Thị An Khang