Hình 1. Phòng lab dã chiến thiết kế tại cộng đồng để xét nghiệm mẫu nước tiểu phát hiện kháng nguyên O. viverrinitại vùng lưu hành sán lá gan nhỏ của tỉnh Maha Sarakham và cán bộ trong Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn tham gia trực tiếp hỗ trợ xét nghiệm mẫu
 Sán lá gan nhỏ Opisthorchis viverrini có mặt tại các nước Đông Nam Á, trong đó tại Việt Nam bệnh lưu hành chủ yếu tại miền Trung-Tây Nguyên và miền Nam (trong khi loài Clonorchis sinensis lưu hành chủ yếu ở miền Bắc). Hầu hết nghiên cứu tập trung vào khía cạnh dịch tễ học, định loài bằng hình thái và sinh học phân tử, điều trị tiệt căn ca bệnh xác định và một số can thiệp phòng chống kết hợp Truyền thông giáo dục sức khỏe/Truyền thông thay đổi hành vi (IEC/BCC nhưng không có tính liên tục, chưa mang tính bền vững và vì thế vẫn còn nhiều “khoảng trống” trong kiểm soát, hướng tới loại trừ một căn bệnh mà vốn dĩ nó cần phải Tiếp cận Một Sức khỏe“One Health Approach”, trong đó sự tham gia và “chuyển biến” trong “thói quen ăn uống” của cộng đồng là rất quan trọng!
 Trong khuôn khổ chuyến thăm và làm việc theo lời mời của PGS.TS. Watcharin Loilome, giám đốc Viện Nghiên cứu Ung thư đường mật của Đại học Khon Kaen, Thái Lan, đoàn công tác của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn lên đường tham gia một Chương trình Sàng lọc và Chăm sóc Ung thư đường mật (cholangiocarcinoma-CCA) tại quy mô cộng đồng có liên quan đến bệnh sán lá gan nhỏ do Opisthorchis viverrini ở người tại tỉnh Maha Sarakham và KhonKaen (Thái Lan) và làm việc trao đổi chuyên môn, định hướng hợp tác nghiên cứu với Viện Nghiên cứu ung thư biểu mô đường mật ở gan (thuộc Đại học Khon Kaen, Thái Lan) từ ngày 08-11/3/2025.
 Một Chương trình sàng lọc quy mô lớn với cỡ mẫu khoảng 500-1000 người dân, phần lớn là người lớn, không phân biệt giới tính, chủng tộc đang sống và làm việc trong vùng lưu hành O. viverrininày sẽ tập trung vào việc phát hiện sán lá gan nhỏ Opisthorchis viverrini bằng bộ xét nghiệm phát hiện kháng nguyên O. viverrini trong nước tiểu đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Thái Lan (FDA) phê duyệt chấp thuận và đưa vào Hướng dẫn Quốc gia sử dụng để chẩn đoán và theo dõi điều trị hiện nay, bởi bộ chẩn đoán này hiện đã được thử nghiệm đánh giá cho thấy độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác cũng như độ phù hợp với các xét nghiệm chuẩn vàng trên bệnh phẩm phân, song song với việc sàng lọc ung thư biểu mô đường mật (CCA) tại 10 phòng siêu âm chuyên nghiệp và dữ liệu được lưu trữ, xử lý cho ra kết quả kịp thời đánh giá kết quả xét nghiệm kháng nguyên và siêu âm nghi ngờ u đường mật. 
 
Hình 2. Cán bộ Viện tham gia thực hiện xét nghiệm demo 5 mẫu nước tiểu từ 5 thành viên để phát hiện kháng nguyên (Ov-Ag) trên mẫu nước tiểu tại cộng đồng & trao đổi phiên giải kết quả trên phiến nhựa
 Đây thực sự là một cơ hội mà Đoàn công tác của Viện đã học được từ khâu chuẩn bị tổ chức (có sự phối hợp với các chức sắc Tôn giáo, sự bồi dưỡng đi lại và ăn uống cho người dân đến nơi sàng lọc, sự tham gia của các lực lượng trong (nhân viên y tế công cộng, nhân viên của Viện Nghiên cứu ung thư biểu mô đường mật - Cholangiocarcinoma Research Institute [CARI], các bác sỹ và điều dưỡng của Bệnh viện đa khoa Khon Kaen và Trung tâm Nghiên cứu chuyên sâu về ung thư biểu mô đường mật -Srinagarind HospitalCholangiocarcinoma Excellent Center trong bệnh viện Khon Kaen, kể cả các bác sỹ tham gia mổ CCA có kinh nghiệm, bác sỹ siêu âm gan mật, nghiên cứu viên và kỹ thuật viên của Lab giáo sư Paiboon Sittithaworn) và những người ngoài ngành y tế như nhân viên tự nguyện cộng đồng, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, người cao tuổinam nữ đến để giúp đỡ, hỗ trợ để đảm vảo mọi công việc thực hiện hoàn tất diễn ra trong ngày. 
 
Hình 3. Cán bộ Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn dưới sự hướng dẫn của cán bộ Viện CARI phân tích kết quả siêu âm đầy đủ ở hệ gan mật của một bệnh nhân nghi ngờ ung thư biểu mô đường mật (CCA) và các bước tiếp theo chuyển tuyến bệnh nhân để làm CT-scan và MRI, sinh thiết mô khẳng định chẩn đoán
 Vì kinh nghiệm hơn 20 năm qua thực hiện các chương trình và dự án trong nước và giúp đỡ các nước châu Á, nên sự chuyên nghiệp và bài bản đã giúp cho sự kiện sàng lọc không một tiếng ồn, không một loa đài mà rất ngăn nắp, thứ tự từ khâu lấy mẫu đến khi vào 10 phòng siêu âm được thiết kế “dã chiến” nhanh bài bản, sạch sẽ và kín đáo với phần mềm phân tích kết quả siêu âm chuyên dụng trên từng ca bệnh được siêu âm gan mật, đối với những ca nghi ngờ CCA có sự hội chẩn và có thể cần làm rõ thông qua chụp tiếp CT-Scan và MRI để khẳng định thêm. 
 Ngoài ra, khi các kết quả chưa đồng thuận, có thể nội soi sinh thiết hoặc sau mổ lấy mẫu bệnh phẩm đi sinh thiết và làm hóa mô miễn dịch trên từng ca bệnh.
 Như vậy, hầu hết khi các ca bệnh có khối u tại đương mật hay bất thường đường mật nghi CCA thì đã giai đoạn muộn rồi! Liệu có một dấu ấn sinh học hay dấu ấn khối u (Biomarkers hay Tumor markers) nào giúp chẩn đoán, theo dõi và tiên lượng cho các trường hợp CCA không? vê mặt phân loại CCA dựa trên vị trí giải phẫu, ung thư đường mật (Biliary Tract cancers - BTCs) chủ yếu được phân thành ung thư biểu mô đường mật (Cholangiocarcinoma-CCA), ung thư túi mật (Gall Bladder Cancer - GBC) và ung thư bóng Vater (Ampullary Vater Cancer-AVC). Trong đó, CCA gồm CCA trong gan (intrahepatic Cholangiocarcinoma - iCCA) và CCA ngoài gan (extrahepatic Cholangiocarcinoma - eCCA). CCA ngoài gan có thể được chia thành CCA vùng rốn gan (perihilar Cholangiocarcinoma- pCCA) và CCA xa (distant Cholangiocarcinoma - dCCA). Về mặt mô học, BTC được phân thành ung thư biểu mô tuyến và thường có tính chất biêt hóa kém (chiếm hơn 95%), ung thư biểu mô nhú, ung thư biểu mô nhầy và ung thư biểu mô tế bào vảy.
 Hình 4. Ung thư biểu mô đường mật xảy ra khi một khối u ác tính phát triểntrong một vị trí của đường mật |Nguồn: https://www.hopkinsmedicine.org/health/ bile ductcancer
 Một số yếu tố nguy cơ đã được xác định ở những bệnh nhân bị ung thư đường mật vùng rốn gan (pCCA) như nhóm tuổi cao, giới tính nam, viêm đường mật xơ cứng nguyên phát (Primary Sclerosing Cholangitis - PSC), cơ địa có nang mật, sỏi đường mật, viêm túi mật, nhiễm ký sinh trùng và đặc biệt là O. viverrini, bệnh viêm ruột, xơ gan do rượu, xơ gan không do rượu và viêm tụy mạnvà yếu tố nguy cơ còn nghi ngờ gồm khói thuốc lá, amiang, nitrosamine, đa hình di truyền quần thể và đái tháo đường.
 Điểm quan trọng, triệu chứng CCA giai đoạn muộn có thể biểu hiện vàng da,nhưng không đau là biểu hiện thường xuyên nhất, xảy ra ở 90% bệnh nhân. pCCA biểu hiện như viêm đường mật do vi khuẩn ở 10% bệnh nhân. Các triệu chứng không đặc hiệu như sụt cân, khó chịu vùng tiêu hóa gan mật, suy nhược và đau bụng mơ hồ cũng có thể xảy ra.
 Các dấu ấn sinh học trong huyết thanh (serum biomarrkers) như nồng độ CA19-9 và CEA huyết thanh là một trong những chỉ điểm chẩn đoán để ước tính tỷ lệ tương quan với giai đoạn khối u của ung thư biểu mô đường mật ở rốn gan (pCCA). CA19-9 là một dấu ấn sinh học khối u đáng tin cậy hơn so với CEA để phân tầng trước phẫu thuật của bệnh nhân pCCA. 
 Viêm đường mật tự miễn liên quan đến IgG4 (IgG4-AIC) là một viêm đường mật thuộc loại bệnh liên quan đến IgG4 (IgG4-RD). Việc kết hợp chẩn đoán hình ảnh với nồng độ IgG4 và CA19-9 trong huyết thanh có thể cải thiện độ nhạy và độ đặc hiệu chẩn đoán trước phẫu thuật, đồng thời làm giảm chẩn đoán sai nhằm làm giảm đi chỉ định phẫu thuật không cần thiết. 
 Hình 5. Triệu chứng của ung thư đường mật gồm vàng da, ngứa da, sut cân, sưng phù chân, 
cảm giác buồn nôn, mệtmỏi và lười nhác, thường táo bón, tính chất phân bất thường, khó chịu ở bụng
 |Nguồn: drchhabrahealthcare.com/disease/bile-duct-cancer-homeopathy-treatment
 Dấu ấn sinh học dựa trên sinh thiết lỏng là một công cụ mới để chẩn đoán ung thư sớm hơn với mức độ xâm lấn tối thiểu. Các dấu ấn sinh học khác nhau có thể được phân tích trong tuần hoàn ngoại vi gồm tế bào khối u tuần hoàn, túi ngoại bào chứa acid nucleic và protein, DNA và RNA không tế bào được giải phóng từ tế bào khối u, protein và chất chuyển hóa do tế bào khối u tiết ra. Lợi ích của dấu ấn sinh học lưu hành mới để chẩn đoán sớm pCCA đang được tranh luận
 Hình 6. Chẩn đoán ung thư biểu mô đường mật nhờ vào nhiề công cụ hình ảnh
 Nguồn: https://www.asiancancer.com/cancer-diagnosis/bile-duct-cancer-diagnosis/
 Về điều trị và theo dõi quản lý ca bệnh CCA, gần đây có nhiều tiến bộ về liệu pháp gen đích liên quan ung thư biểu mô đường mật vùng rốn gan (pCCA), trong đó đáng chú ý chỉ điểm ERBB2/3 trong số các trường hợp CCA, các đột biến KRAS và PI3K-AKT, BRAF.
 Trong tương lai, điều trị đích có thể trở thành liệu pháp đầy hứa hẹn đối với các bệnh nhân CCA nói chung và pCCA nói riêng thông qua sự kết hợp của các thay đổi gen và các thuốc đích.
 (Còn nữa)
TS.BS. Huỳnh Hồng Quang & TS. Nguyễn Thị Liên Hạnh
Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn