Tình trạng ký sinh trùng sốt rét P.falciparumkháng thuốc đang lan tràn nghiêm trọng trên thế giới và Đông nam Á; ởViệt Nam P.falciparum kháng cao với Chloroquin, Fansidar và giảm đáp ứng với nhiều loại thuốc chống sốt rét hiện dùng, chưa có thuốc hiệu lực cao đồng thời diệt thể vô tính (asexual) và diệt thể giao bào (gametocytes). Việc tìm tòi một thứ thuốc có hiệu quả điều trị tốt đối với sốt rétP.falciparum là một vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách.
Từ năm 1990, thuốc chống sốt rét Artemisinine và dẫn chất (Artesunate) được tiến hành thử nghiệm lâm sàng và chính thức đưa vào sử dụng rộng rãi trong Chương trình quốc gia phòng chống sốt rét ở nước ta đã có vai trò tích cực trong việc hạ thấp tỷ lệ bệnh và tỷ lệ tử vong do sốt rét. Mặc dù với liệu trình 5 ngày tỷ lệ khỏi bệnh do sốt rét P.falciparumcó thể đến 80-90%, nhưng nhược điểm lớn nhất của Artemisinine và dẫn chất khi điều trị đơn thuần là tỷ lệ tái phát sớm sau điều trị quá cao (35-50%); để khắc phục nhược điểm này nhiều phác đồ phối hợp thuốc có gốc Artemisinine (ACT: Artemisinine-based Combination Therapy) đã được nghiên cứu và sử dụng ở nước ta.
Về phối hợp thuốc có gốc Artemisinine (ACT):
Các phác đồ phối hợp có Artemisinine có tác dụng diệt ký sinh trùng và cắt sốt nhanh, có hiệu lực điều trị cao với ký sinh trùng P.falciparum đa kháng thuốc, giảm giao bào đồng thời với giảm nhanh sự lan truyền kháng thuốc. Các phác đồ phối hợp đã được nghiên cứu sử dụng bao gồm:
- Artemisinine/Artesunate + Tetraxycline
- Artemisinine/Artesunate + Amodiaquine
- Artemisinine/Artesunate + Fansidar (Sulfadoxine + Pyrimethamine)
- Artemisinine/Artesunate + Mefloquine.
- Artemisinine/Artesunate + Lumefantrin (Coartem)
- Dihydroartemisinine + Piperaqine + Primaqine + Trimethoprim (CV8)
- Dihydroartemisinine + Piperaqine (Artecom, Artecan, Artekin)
- Artemisinine + Piperaqine (Artequick)
Để nghiên cứu một loại thuốc phối hợp có gốc Artemisinine, Viện Nghiên cứu Y học nhiệt đới Sanya-Học Viện Trung y dược Quảng Châu Trung Quốc đã phối hợp với nhiều đơn vị hợp tác ở Việt Nam để nghiên cứu thuốc sốt rét phối hợp CV8 bao gồm 4 thành phần (Dihydroartemisinine + Piperaqine + Primaqine + Trimethoprim), thuốc phối hợp Artekin bao gồm 2 thành phần (Dihydroartemisinine + Piperaqine) và thuốc phối hợp Artequick bao gồm 2 thành phần (Artemisinine + Piperaqine).
|
Đại biểu đến từ các nước tham dự hội nghị đánh giá về thử nghiệm lâm sàng thuốc Artemisinine phối hợp (ACT) |
Về phối hợp thuốc CV8:
Giai đoạn thử nghiệm tiền lâm sàng (Clinical trial phase I): Từ năm 1992 với sự giúp đỡ của Bộ Y tế, Viện Nghiên cứu Y học nhiệt đới Sanya-Học Viện Trung y dược Quảng Châu Trung Quốc và Bệnh viện Chợ Rẫy-TP. Hồ Chí Minh đã bắt đầu nghiên cứu bào chế phức hợp CV (CV1-CV9) và lần lượt đưa vào thăm dò tìm hiểu về hiệu lực, tác dụng phụ, tỷ lệ tái phát… cuối cùng đã xác định CV8 là thuốc có triển vọng hơn tất cả. Giai đoạn nghiên cứu tiền lâm sàng được tiến hành tại Phòng thí nghiệm Trung tâm đào tạo và nghiên cứu y dược học dân tộc TP. Hồ Chí Minh, giai đoạn thử khả năng dung nạp của cơ thể người và độ an toàn trong sử dụng CV8 được tiến hành tại Học viện Trung y dược Quảng Châu trên người khỏe mạnh cho thấy cơ thể người khỏe mạnh dung nạp tốt CV8 với liều điều trị cũng như liều cao hơn 1,4 lần.
Giai đoạn thử nghiệm lâm sàng (Clinical trial phase II): từ năm 1994 việc thử nghiệm lâm sàng CV8 được tiến hành tại các cơ sở điều trị và thực địa với các đơn vị hợp tác Trung tâm Nghiên cứu lâm sàng y học nhiệt đới-Bệnh viện Chợ Rẫy TP. Hồ Chí Minh, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, Trung tâm đào tạo và nghiên cứu y học cổ truyền TP. Hồ Chí Minh, Bệnh viện khu vực Xuân Lộc-Đồng Nai, Bệnh viện khu vực Tân Phú-Lâm Đồng, Bệnh viện tỉnh Lâm Đồng, Trung tâm PCSR-BC tỉnh Bình Thuận. Qua 477 bệnh nhân sốt rét chưa biến chứng được lựa chọn theo dõi (378 ca sốt rét do P.falciparum và 99 ca sốt rét do P.vivax) cho thấy tỷ lệ khỏi bệnh của sốt rét do P.falciparum là 93,6% và tỷ lệ tái phát của sốt rét do P.vivax trong vòng 28 ngày là 2,2%. Các kết quả thử nghiệm đã chứng minh rằng CV8 có hiệu lực điều trị cao, tác dụng phụ thấp, sử dụng an toàn, liệu trình điều trị ngắn, giá tương đối rẻ, lại có tác dụng diệt giao bào để cắt nguồn lây, có triển vọng trở thành thứ thuốc tuyến đầu của nước ta.
Giai đoạn điều trị mở rộng (Clinical trial phase III): CV8 được áp dụng điều trị sốt rét do P.falciparum tại bệnh viện Tân Phú-Lâm Đồng, điều trị sốt rét do P.vivax tại Bệnh viện đa khoa Xuân Lộc-Đồng Nai, một số vùng sốt rét lưu hành ở tỉnh Bình Thuận và đặc biệt là Viện sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã ứng dụng điều trị mở rộng góp phần ngăn chặn các vụ dịch sốt rét tại Quảng Bình, Quảng Trị năm 1998 bằng CV8. Kết quả áp dụng điều trị mở rộng cũng cho thấy thuốc có hiệu lực và tính an toàn cao, chưa gặp tai biến nào trong điều trị trên diện rộng.
Sử dụng chính thức trong Chương trình quốc gia phòng chống sốt rét: từ năm 2003 đến nay, phối hợp thuốc CV8 được đưa vào danh mục thuốc sốt rét thiết yếu và chính thức sử dụng trong Chương trình quốc gia phòng chống sốt rét ở Việt Nam. Thuốc này có ưu điểm là sản xuất trong nước (Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 26-OPC, TP. Hồ Chí Minh), hiệu lực điều trị cao, thời gian điều trị ngắn (3 ngày), được cộng đồng dễ chấp nhận. Tuy nhiên, thuốc CV8 vẫn còn tồn tại một số nhược điểm như có 4 thành phần phối hợp, trong đó có Primaquine nên không thể sử dụng điều trị rộng rãi cho các đối tượng bệnh nhân là phụ nữ có thai, trẻ em dưới 3 tuổi, người có bệnh gan, thận… nên cần phải tìm kiếm thêm một phối hợp có gốc Artemisinine khac để phù hợp với chiến lược sử dụng thuốc sốt rét ở nước ta.
Về phối hợp thuốc Dihydroartemisinine + Piperaquine (Artekin) và Artemisinine + Piperaquine (Artequick):
Các phối hợp thuốc Dihydroartemisinine + Piperaquine được xem như là một dạng CV8 cải tiến khi bỏ bớt đi hai thành phần là Primaquine và Trimethoprim, nhưng vẫn đảm bảo tính hiệu quả cắt sốt, diệt ký sinh trùng và giảm giao bào của P.falciparum. Từ năm 2004 Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã phối hợp với Trường Đại học trung y dược Quảng Châu (Trung Quốc) nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng (Clinical trial phase III) với các dạng viên phối hợp này:
So sánh hiệu lực điều trị sốt rét P.falciparum chưa biến chứng của Artekin với Artequick: kết quả qua 103 ca thử nghiệm cho hai nhóm Artekin (52 ca) và Artequick (51 ca) tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên năm 2004 cho thấy thời gian cắt sốt (22,7h ± 11,2 ® 24,7h ± 9,9), thời gian cắt ký sinh trùng (36,5h± 17,1 ® 43,2h ± 13,9) không có sự khác biệt giữa hai nhóm, tỷ lệ khỏi bệnh là 100%, không có ca nào tái phát sau 28 ngày theo dõi. Tuy nhiên, nhóm Artequick ít tác dụng phụ hơn so với nhóm Artekin và liệu trình điều trị chỉ có hai ngày nên dễ sử dụng ở các tuyến y tế cơ sở.
|
Đoàn đại biểu Việt Nam tham gia hội nghị |
So sánh hiệu lực điều trị sốt rét P.falciparumchưa biến chứng ở trẻ em của Artequick dạng viên cốm và dạng viên nén: kết quả qua 180 ca thử nghiệm cho hai nhóm Artequick dạng viên cốm (107 ca) và Artequick dạng viên nén (73 ca) năm 2004-2005 tại miền Trung-Tây Nguyên cho thấy thời gian cắt sốt (28,4 ± 12,3 ® 27,3 ± 10,8), thời gian cắt ký sinh trùng (47,3± 15,4 ® 43,2 ± 13,5) không có sự khác biệt giữa hai nhóm, tỷ lệ khỏi bệnh nhóm Artequick dạng viên cốm là 98,1% (105/107) và 2 ca tái phát trong 28 ngày theo dõi; nhóm Artequick dạng viên nén là 100% không có ca nào tái phát sau 28 ngày theo dõi. Tác dụng phụ của thuốc ở cả hai nhóm đều không đáng kể và liệu trình điều trị chỉ có hai ngày nên dễ sử dụng ở các tuyến y tế cơ sở.
Kết quả thử nghiệm lâm sàng điều trị sốt rét P.falciparumchưa biến chứng ở trẻ em của Artequick dạng viên cốm: kết quả qua 42 ca thử nghiệm cho hai nhóm Artekin (52 ca) và Artequick (51 ca) năm 2006 tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên cho trẻ em dưới 10 tuổi thấy thời gian cắt sốt 22,14h ± 10,81), thời gian cắt ký sinh trùng (45,48h± 12,75), tỷ lệ khỏi bệnh là 100%, không có ca nào tái phát sau 28 ngày theo dõi. Tác dụng phụ hơn chủ yếu là chán ăn (14,3%), buồn nôn (4,8%), nôn mửa (4,8%) và ỉa chảy (2,4%) tự hết sau khi ngưng thuốc điều trị.
Các phác đồ phối hợp ACT cũng đã được phối hợp nghiên cứu tại nhiều quốc gia và tổ chức trên thế giới như Thailand, Cambodia, Indonesia, Việt nam các nước Châu Phi… và được báo cáo tại Hội nghị quốc tế “Đánh giá các thử nghiệm lâm sàng về thuốc Artemisinine phối hợp” lần thứ nhất tại Trường Đại học Mahidol-Thailand năm 2005 và lần thứ hai tại Học viện Trung y dược Quảng châu-Trung quốc năm 2006.
Với những ưu điểm của các thuốc ACT, Artekin đã được Bộ Y tế cho phép đăng ký vào danh mục thuốc sốt rét thiết yếu và được lựa chọn sử dụng trong Chương trình quốc gia phòng chống sốt rét ở Việt Nam từ năm 2007. Hy vọng thuốc Artekin và các thuốc phối hợp có gốc Artemisinine khác sẽ được sử dụng rộng rãi để điều trị bệnh nhân sốt rét ở tất cả các tuyến góp phần tích cực làm giảm tỷ lệ bệnh, hạn chế tử vong sốt rét theo mục tiêu đã đề ra.