Dengue xuất huyết là bệnh truyền nhiễm cấp tính, gây dịch do virus Dengue gây nên, bệnh lan truyền chủ yếu do trung gian truyền bệnh là muỗi Aedes aegypti và một số loài muỗi khác. Biểu hiện trên lâm sàng là sốt Dengue, sốt xuất huyết Dengue và sốc Dengue.
Bệnh đã được biết đến từ Thế kỷ XVI, tuy nhiên trong những năm gần đây sốt xuất huyết Dengue mới trở thành vấn đề y học cần quan tâm của nhiều vùng, lãnh thổ, nhất là khu vực Đông Nam Á. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), bệnh Dengue xuất huyết hiện đang lan truyền ở nhiều nước trên thế giới với khoảng 20 triệu người bị nhiễm virus Dengue và khoảng 500.000 trường hợp bị Dengue xuất huyết phải nhập viện chủ yếu là trẻ em. Dengue xuất huyết có thể gây bệnh nguy kịch, hội chứng sốc Dengue và nhanh chóng dẫn tới tử vong nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Ở Việt Nam, sốt Dengue và sốt xuất huyết Dengue được phát hiện vào những năm 1960, cho đến nay nó đã trở thành một bệnh dịch lưu hành quang năm không chỉ xuất hiện ở đô thị mà cả ở vùng nông thôn, nơi có muỗi trung gian truyền bệnh nhất là tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Dịch lớn sốt Dengue và sốt xuất huyết Dengue phát triển theomùa (tháng 6-10) và bùng nổ theo chu kỳ 3-5 năm/một lần, điển hình là vụ dịch năm 1998 trên toàn quốc với số người mắc 234.920 người và tử vong 377 người. Ở nước ta đã phân lập được cả 4 tip virus Dengue gây bệnh: Tip Dengue 1 và Dengue 2 (1991-1995), tip 3 (1997-1998) và tip 4 (từ năm 1999 đến nay).
Để nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và dịch tễ học sốt xuất huyết Dengue, một chương trình hợp tác giữa Quân đội Việt Nam và Australia đã được tiến hành từ năm 2005-2010 tại 4 điểm nghiên cứu thuộc các tỉnh phía Nam là Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hòa và Cần Thơ.
Từ 1/2/2007-2/2/2007, Hội nghị khoa học về phòng chống Dengue xuất huyết trong khuôn khổ Dự án phòng chống sốt rét và Dengue xuất huyết Quân y Việt Nam-Australia đã được tổ chức tại Bệnh viện Quân y 87 nhằm sơ bộ đánh giá kết quả nghiên cứu qua hai năm thực hiện (2005-2006). Đến dự Hội nghị có Thiếu tướng Chu Tiến Cường-Cục trưởng Cục Quân y, Thiếu tướng Bùi Đại-Nguyên giám đốc Bệnh viện Quân y 108, Đại tá-PGS.TS. Nguyễn Xuân Thành-Viện trưởng Viện Vệ sinh phòng dịch Quân đội, Đại tá Nguyễn Văn Sử-Giám đốc bệnh viện Quân y 87, TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn cùng các đại biểu đến từ các đơn vị tham gia hợp tác nghiên cứu là Viện Vệ sinh phòng dịch Quân đội, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, Viện Quân y 17 Đà Nẵng, Quân y viện 13 Bình Định, Bệnh viện Quân y 87 và Bệnh viện Quân y 121 Cần Thơ.
Chủ trì Hội nghị có TS. John Aaskov-Chuyên gia Trường Đại học tổng hợp Kỹ thuật Queensland-Australia và Đại tá Nguyễn Xuân Thành-Viện trưởng Viện Vệ sinhphòng dịch Quân đội. Nội dung hội nghị tập trung vào một số vấn đề chính:
Đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm sốt xuất huyết Dengue tại các địa điểm nghiên cứu.
Giám sát muỗi Aedes truyền bệnh sốt xuất huyết ở cộng đồng và gia đình bệnh nhân tại các địa diểm nghiên cứu.
Kết quả phân lập virus Dengue tại Viện Vệ sinh dịch tễ Quân đội.
| |
Đại tá-PGS.TS. Nguyễn Xuân Thành-Viện trưởng Viện Vệ sinh phòng dịch Quân đội báo cáo tại Hội nghị | TS. John Aaskov-Chuyên gia Trường Đại học tổng hợp Kỹ thuật Queensland-Australia báo cáo tại Hội nghị |
1. Về đặc điểm lâm sàng:
Sốt: thân nhiệt 38-400C (> 70%), trong đó sốt nóng (65%) và rét run (15%), kèm theo sốt bệnh nhân có biểu hiện nhiễm độc như đau đầu vùng trán và thái dương, đau cơ, đau khớp.
Xung huyết da và niêm mạc: ban xuất huyết da xuất hiện từ ngày đầu hoặc ngày hai (97%), ban xuất huyết thường ở tứ chi, thâm mình dưới dạng nốt xuất huyết. Dấu hiệu Lacet khoảng 21% thường dương tính vào ngày thứ 2-3 của bệnh. Xuất huyết niêm mạc chủ yếu vào giai đoạn toàn phát (từ ngày 2-5) như chảy máu cam và chảy máu chân răng hoặc xuất huyết nội tạng (nôn ra máu, ỉa phân đen…)
Rối loạn tiêu hóa: buồn nôn, nôn (18-25%), đi cầu phân lỏng (21-23%), thời gian đi lỏng thường kéo dài từ 1-3 ngày, tính chất phân lỏng, toàn nước, màu vàng, không nhầy máu. Các triệu chứng này không có giá trị đặc hiệu trong chẩn đoán nhưng lại là một nguy cơ tăng hội chứng mất nước dễ dẫn đến sốc.
Toàn thân: hạch to (10-30%), gan tó (40-50%)
Chẩn đoán: những ngày đầu sốt xuất huyết Dengue dễ nhầm với một số bệnh lý như nhiễm virus đường hô hấp cấp, viêm họng, cúm, thương hàn hoặc nhiễm khuẩn gram âm đường tiêu hóa.
2. Về xét nghiệm:
Huyết học: bạch cầu < 4 g/l (50-70%), Neutro giảm và Lympho tăng (46%), Hematocrit > 42% (30-40%), tiểu cầu < 150 g/l (45-60%), tỷ lệ VS bình thường (90%). Theo Tổ chức Y tế thế giới, một trong những tiêu chuẩn quyết định chẩn đoán là Hematocrit > 45%, tuy nhiên không phải trường hợp nào bị sốt xuất huyết Dengue, hematocrit cũng tăng (trừ khi có sốc) vì nó còn tùy thuộc vào các yếu tố như mức độ mất nước-điện giải do sốt, nôn, không ăn uống được và cách điều trị trước khi nhập viện (có được bù nước hay không).
Sinh hóa: SGOT tăng (40%), SGPT tăng (31%), Bilirubin ở giới hạn bình thường (100%). Triệu chứng men gan tăng thường xuất hiện ở những bệnh nhân có gan to.
Miễn dịch: kết quả xét nghiệm huyết thanh học phát hiện kháng thể kháng virus Dengue qua KIT chẩn đoán nhanh để phát hiện kháng thể IgM kháng Dengue lần 1 ((68%) cao hơn lần 2 (53%), IgG dương tính lần 1 (46,87%) thấp hơn lần 2 (53,12%).
3. Về kết quả phân lập virus dengue:
Trong tổng số 59 bệnh phẩm đủ tiêu chuẩn phân lập chỉ phát hiện được virus Dengue1 và Dengue 2 lưu hành trong vùng dịch tại Nha Trang, trong khi tại Đà nẵng chỉ phát hiện được bệnh nhân dương tính nhưng không xác định được căn nguyên virus.
4. Về giám sát muỗi truyền bệnh:
Số lượng muỗi và tỷ lệ muỗi Aedes trên tổng số muỗi thu thập ở nhóm cộng đồng trong cùng thời điểm không có biến động qua hai năm theo dõi. Số lượng và tỷ lệ muỗi Aedes ở nhóm gia đình bệnh nhân có sự khác biệt rõ rệt so với nhóm điều tra ở cộng đồng. Điều này khẳng định rõ sự có mặt của sốt xuất huyết đóng vai trò quan trọng trong việc lây truyền và phát sinh dịch.
5. Kết quả điều trị:
100% số ca nhập viện đều được điều trị khỏi, không có tử vong. Phác đồ điều trị chủ yếu áp dụng với các ca sốt nhẹ, mới mắc bằng bù nước đường uống, còn sốt cao kéo dài thì bù dịch bằng đường tĩnh mạch kết hợp với điều trị triệu chứng, kháng Histamin, tăng sức bền thành mạch và nâng cao thể trạng bệnh nhân.
Kết quả nghiên cứu được tiếp tục tiến hành và mở rộng đối tượng bệnh nhân ở nhóm tuổi trẻ em, trong giai đoạn nghiên cứu từ năm 2007-2010 có sự tham gia của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn về giám sát và xác định côn trùng truyền bệnh, đặc biệt là kết hợp giữa bắt muỗi và lấy huyết thanh xác định nhiễm vius dengue trên các đối tượng ở trẻ em để thiết lập bản đồ dịch tễ có ý nghĩa lau dài nhằm góp phần đẩy mạnh công tác dự phòng; đồng thời điều tra đặc điểm khí hậu và điều kiện môi trường tự nhiên ảnh hưởng đến sự phân bố các loài muỗi Aedes trong khu vực. Xác định type virus sớm để đánh giá ý nghĩa lâm sàng qua các đợt dịch, giúp cho dự báo tiên lượng bệnh và tìm ra chu kỳ bệnh dịch hàng năm.