Câu hỏi:
Bạn Trần Lộc (Quảng Nam) hỏi: Tôi là một nhân viên y tế thôn bản, được tuyến trên chỉ đạo không được điều trị sốt rét ác tính. Vậy khi gặp phải các trường hợp sốt rét nặng, đe dọa sốt rét ác tính; y tế thôn bản phải xử trí như thế nào cho phù hợp ?
Trả lời:
Theo hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét được Bộ Y tế ban hành, trong phân tuyến điều trị, sốt rét ác tính chỉ được điều trị tại bệnh viện huyện, thị xã, thành phố; bệnh viện công nông lâm trường, xí nghiệp trở lên. Từ trạm y tế xã, phường, thị trấn trở xuống y tế thôn bản, tổ dân phố; kể cả cơ sở y tế tư nhân không được điều trị sốt rét ác tính mà chỉ được phép xử trí ban đầu và tìm mọi cách chuyển ngay người bệnh lên tuyến trên.
Khi y tế thôn bản gặp phải bệnh nhân sốt rét, cần theo dõi chặt chẽ người bệnh, nếu phát hiện bệnh nhân có một trong các dấu hiệu dự báo sốt rét ác tính như: bị rối loạn ý thức nhẹ thoáng qua biểu hiện bằng triệu chứng li bì, cuồng sảng, vật vã; sốt cao liên tục, có rối loạn tiêu hóa biểu hiện bằng các triệu chứng nôn nhiều lần trong ngày, tiêu chảy mất nước, đau bụng cấp; bị nhức đầu dữ dội; thiếu máu nặng, da xanh, niêm mạc nhợt nhạt... Nhân viên y tế cần phải cho người bệnh uống ngay liều thuốc đầu tiên có hiệu lực cao như thuốc Arterakine hoặc CV Artecan (Dihydroartemisinine-Piperaquine) và tìm mọi phương tiện chuyển ngay bệnh nhân lên tuyến bệnh viện huyện, thị xã, thành phố hoặc bệnh viện nơi gần nhất, có thể không cần qua trạm y tế mà chỉ cần thông báo cho trạm y tế phối hợp vì sợ sẽ bị chậm trễ.
Liều thuốc đầu tiên được chỉ định uống theo nhóm tuổi. Dưới 3 tuổi: giờ đầu uống nửa viên, sau 8 giờ uống tiếp nửa viên. Từ 3 tuổi đến dưới 8 tuổi: giờ đầu uống 1 viên, sau 8 giờ uống tiếp 1 viên. Từ 8 tuổi đến dưới 15 tuổi: giờ đầu uống 1 viên rưởi, sau 8 giờ uống tiếp 1 viên rưởi. Từ 15 tuổi trở lên: giờ đầu uống 2 viên, sau 8 giờ uống tiếp 2 viên. Đây là liều thuốc ban đầu của ngày đầu tiên do y tế thôn bản xử trí. Bệnh viện tuyến trên sẽ có căn cứ để tiếp tục xử trí phù hợp.
Thuốc Arterakine hoặc CV Artecan phải được nghiền nhỏ và pha trong một ít nước sạch để thuốc tan hoàn toàn. Trước khi uống thuốc, phải cho người bệnh uống thăm dò một ít nước; nếu uống được, không bị sặc mới cho uống tiếp thuốc đã pha. Như vậy, y tế thôn bản, tổ dân cưphải chuẩn bị sẵn 2 loại thuốc được Bộ Y tế cho phép sử dụng tại thôn bản là Arterakine (hoặc CV Artecan) và Chloroquine để dùng, xử trí điều trị khi cần thiết. Nguồn thuốc này được nhận hoàn toàn miễn phí tại trạm y tế xã, phường, thị trấn.
Câu hỏi:
Bạn Trần Bá Lộc, nông dân ở Duy Xuyên, Quảng Nam hỏi: Trong khi sử dụng máy xay xát lúa gạo, tôi bị vỏ trấu bắn vào mắt. Do bận công việc nên chủ quan, chỉ dùng thuốc nhỏ mắt thông thường một thời gian nhưng sau đó mắt vẫn bị ngứa, chảy nhiều nước mắt, có hiện tượng nhìn mờ, không rõ. Đi khám chuyên khoa được bác sĩ chẩn đoán là viêm giác mạc do nấm. Xin bác sĩ giải thích rõ về bệnh này, chân thành cám ơn.
Trả lời:
Khi bị vỏ trấu bắn vào mắt có thể dẫn đến viêm giác mạc do nấm, bạn cần hiểu đặc điểm của bệnh viêm giác mạc và cách xử trí như sau.
Đặc điểm bệnh viêm giác mạc do nấm
Viêm giác mạc do nấm thường hay xảy ra sau khi bị chấn thương ở mắt như lá lúa quẹt xước giác mạc, vỏ trấu bắn vào mắt... Hiện nay, việc sử dụng các loại thuốc kháng sinh, corticoide để nhỏ mắt kéo dài không đúng chỉ định sẽ làm cho bệnh viêm giác mạc do nấm ngày càng phổ biến hơn.
Các nhà khoa học đã nghiên cứu xác định có khoảng 50 loài nấm khác nhau gây bệnh viêm giác mạc, phổ biến nhất là các loại nấm Fusarium, Aspergillus, Curvularia, Penicillium, Cephalosporium, Candida... Ngoài loại nấm Candida có thể ký sinh thường trú ở người, tất cả các loại nấm khác thường sống hoại sinh ở trong đất và hầu hết có thể phân lập, phát hiện được nấm ở trong không khí.
Hình ảnh tổn thương giác mạc mắt trên lâm sàng tương đối giống nhau. Bệnh viêm giác mạc mắt thường gây nguy hiểm cho bệnh nhân, có thể dẫn đến mất thị lực. Về lâm sàng, khi mắt bị chấn thương làm xước giác mạc, nấm có cơ hội dễ xâm nhập vào giác mạc. Khi bị nhiễm nấm, thường xuất hiện một lớp mỏng màu trắng ở trên bề mặt của giác mạc. Lớp màng này lan rộng chậm, có thể dẫn đến loét giác mạc, tổn thương lan rộng và làm giảm thị lực.
Chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh
Việc chẩn đoán xác định bệnh viêm giác mạc do nấm được thực hiện bằng cách lấy bệnh phẩm từ lớp màng trắng ở giác mạc, thủ thuật này phải do bác sĩ chuyên khoa mắt tiến hành. Xét nghiệm bệnh phẩm trực tiếp với phương pháp soi trong dung dịch KOH dưới kính hiển vi có thể thấy các sợi nấm hoặc nấm men và sợi nấm giả nếu nguyên nhân do nhiễm nấm Candida. Việc chẩn đoán giải phẩu bệnh thường ít thực hiện. Ngoài ra, có thể nuôi cấy bệnh phẩm trong môi trường Sabouraud ở nhiệt độ của phòng thí nghiệm. Sau khoảng thời gian từ 1 đến 2 tuần, nấm sẽ mọc, kiểm tra đại thể và vi thể để xác định loại nấm gây bệnh. Nếu xét nghiệm trực tiếp có kết quả dương tính và cấy nấm dương tính sẽ rất có giá trị trong chẩn đoán xác định. Nếu xét nghiệm trực tiếp cho kết quả âm tính thì kết quả cấy nấm ít có ý nghĩa vì có thể chỉ là loại nấm loạn nhiễm.
Điều trị bệnh nấm viêm giác mạc thường dùng thuốc chống nấm như amphotericin B, 5-fluorocytosin, pimaricin 5% (còn gọi là natamycin). Natamycin có tác dụng tốt nhưng hiếm, giá thành lại cao nên có thể dùng itraconazol hay fluconazol để điều trị. Nếu sử sụng tại chỗ có thể dùng amphotericin B từ 0,1% đến 0,5% trong nước cất vô trùng. Loại miconazol dạng thuốc dùng tĩnh mạch (10mg/ml) có thể dùng để nhỏ mắt.
Phòng bệnh viêm giác mạc do nấm là đề phòng sự chấn thương ở mắt. Khi lao động có các nguy cơ bị chấn thương ở mắt như mang vát lúa, xay xát lúa gạo... cần sử dụng loại kính trắng đeo mắt bảo hộ lao động để che bảo vệ mắt khỏi bị tổn thương.