Văn Binh Đặng < dang vanbinh99@gmail.com>
Hỏi:Em tên Bình, quê ở An Nhơn-Bình Định, đang học tại ĐH sư phạm kỹ thuật tp.hcm. Em bị ngứa cả năm nay, ngứa khắp người, nhất là buổi tối, ngứa cả ở trên đầu. Hè năm trước em có xét nghiệm tại bệnh viện da liễu quy hòa, kết quả là em bị nhiễm giun đũa chó, uống thuôc Zeltel 21 ngày nhưng không hết ngứa. Tháng 7 vừa rồi, em về Bình Định và xét nghiệm tại Phòng Khám Bướu, họ bảo em nhiểm: giun đũa chó, giun đầu gai và sán lá gan lớn. Em được xổ sán lá gan lớn tại chỗ (uống 2 viên thuốc đó), và uống liên tục 2 toa thuốc Albenzole 400mg, mỗi toa 21 ngày. Bây giờ em vẫn còn thấy ngứa. BS cho em hỏi là: dùng thuôc Albenzole 400mg trong bao lâu thì có thể hết sán đầu chó ? và em điều trị 2 toa như trên là đủ chưa?, em sợ dùng nhiều không tốt cho gan (thấy họ cho em uống kèm thuốc bổ gan HEPATO). Em định tết nay về xuống Viện sốt rét - ký sinh trùng để xét nghiệm. Em cảm ơn BS! Mong nhận hồi âm sớm từ BS.
Trả lời: Rất cảm ơn bạn đã tin tưởng vào phần trả lời hỏi đáp của trang website chúng tôi để đặt câu hỏi. Phải nói rằng cầu hỏi của bạn rất chi tiết và cụ thể. Chúng tôi nghĩ rằng hiện tại triệu chứng ngứa của bạn không thể là do giun sán đầu gai, đũa chó hay sán lá gan gì nữa đâu vì ở BV Phong và Da liễu Trung ương Quy hòa và Trung Tâm phòng chống sốt rét và bướu cổ tỉnh Bình Định đã dùng liên tục cho bạn 3 toa thuốc Albendazole với liệu trình 21 ngày với liều người lớn là 21 ngày, 42 viên/ đợt x 3 đợt = 126 viên là quá cao và kéo dài rồi thì không thể con giun sán nào còn sống nữa đâu, vả lại khi đó không biết tế bào gan của bạn có bền vững và còn đủ sức chống đỡ nữa không huống chi giun sán.
Điều quan trọng nhất hiện tại là bạn vẫn còn ngứa thì chúng tôi không còn nghĩ đến nguyên nhân giun sán nữa đâu mà khuyên bạn nên nghĩ đến nguyên nhân khác như nấm (vì có thể ảnh hưởng lên cả da đầu của bạn nữa kia mà), nhiễm độc (chẳng hạn bạn có liên quan đến nghề nghiệp), hoặc nguồn nước, hoặc môi trường phòng ngủ của bạn có những dị nguyên không phù hợp với cơ thể bạn nữa (như bụi nhà, mạt nhà,…), hoặc do con ghẻ chó (Demodex canis). Do đó, chúng tôi khuyên bạn không nên đi khám thêm giun sán nữa mà nên tìm đến các tác nhân khác như trên tại các phòng khám hoặc bệnh viện chuyên khoa da liễu, BV đại học y dược TPHCM, Bệnh viện nhiệt đới TP. HCM bạn nhé.
Thân chúc bạn khỏe!
Lưu Chí Anh, KP 6, Tô 12, P. Rach Gia, ….
Hỏi:Em bị ngứa vùng mặt cách nay gần 3 tháng đi khám và điều trị khắp nơi với giun đũa chó mà không hết ngứa và sẩn da mặt. Hôm qua em đi khám tại BV Da liễu TP. Hồ Chí Minh, các bác sí kết luận em bị con ghẻ chó. Xin các bác sĩ cho em biết con ghe chó là gì và nó nằm ở đâu, làm thế nào em điều trị nó bớt ngứa bây giờ. Em vô cùng cảm ơn và hậu tạ các thầy thuốc!
Trả lời:Phải nói rằng câu hỏi của bạn làm chúng tôi cần phải viết và biên soạn bài này một cách cụ thể hơn vì thời gian qua trung bình một ngày chúng tôi gặp không ít hai ca đếm khám và điều trị tại phòng khám của Viện Sốt rét KST - CT Quy Nhơn, trong khi đó nhiều bác sĩ trước tuyến lại thường nhầm lẫn với một số thương tổn do giun sán truyền từ động vật sang người và dẫn đến hậu quả là điều trị chưa thích hợp kể cả tuyến trước. Viêm da do Demodex là bệnh gây nên bởi một loại côn trùng chân khớp, ký sinh tạm thời ở nang lông, gần nang lông, tuyến bã, trên vảy da ở người và súc vật. Demodex thuộc họ ve mạt, đây là loại ký sinh nhỏ nhất trong ngành chân khớp, có khoảng 65 loài Demodex được biết đến.
Demodex là một loại ký sinh trùng thuộc ngànhđộng vật chân đốt nhỏ, lớp nhện, bộ ve, họ demodicidae, giống Demodex với khoảng 65 loài khác nhau. Về hình thái học chúng gồm đầu, cổ, thân mình và đuôi. Demodex ký sinh phần lớn ở nang lông những vùng da mỡ, đặc biệt là ở trán, gò má, hai bên cánh mũi, lông mi, lông mày, lông nách, thậm chí cắc vùng kín trên cơ thể bạn.
·Dù bệnh do hầu hết Demodex spp. được coi là các phổ tác nhân chí bình thường trên các động vật có vú, khi quá phát triển các côn trùng này có thể liên quan đến sự phát triển của quá trình rụng tóc từng mảng hoặc viêm da trên chó từ nhẹ đến nặng (hiếm gặp trên mèo);
·Trong trường hợp bệnh demodicosis gây ra bởi Demodex sp trên chó hoặc D. gatoi trên mèo, bệnh thường được xem là tác nhân do nhiễm phải và phát triển quá mức.
Trong số 65 loài, có ít nhất 2 loài Demodex thường gặp ký sinh trên da người là loại Demodex folliculorum (viết tắt D. folliculorum), thường ký sinh ở nang lông, tóc và loại Demodex brevis (D.brevis), thường ký sinh ở tuyến bã. Con trưởng thành D.folliculorum có chiều dài 0,3 - 0,4 mm, D. brevis 0,15 - 0,2mm, có bốn cặp chân ngắn gần vùng đầu và cổ. Chỉ có ba cặp chân ngắn gần khu vực đầu khi còn là ấu trùng hoặc nhộng.
Chu kỳ sống của Demodex có 5 giai đoạn: trứng, ấu trùng, tiền nhộng, nhộng và con trưởng thành. Theo ghi nhận trong y văn, mất khoảng thời gian 3 - 4 ngày từ giai đoạn trứng đến tiền nhộng và khoảng 7 ngày từ nhộng phát triển thành con trưởng thành. Demodex thường sống thành đôi, vòng đời trong khoảng thời gian 18 - 24 ngày trên vật chủ của nó. Con cái đẻ 20 - 24 trứng trong nang tóc. D. folliculorum cái ngắn hơn và tròn hơn con đực. Cả hai đều có bộ phận sinh dục ngoài, sau khi giao phối, chúng đi sâu vào bên trong da và đẻ trứng ở nang lông hoặc tuyến bã, mang theo vi khuẩn và bài tiết ra chất thải, chết ở trong da ngay sau khi đẻ trứng. Sau khi chết, xác của chúng hóa lỏng và phân hủy trong da và gây ra phản ứng dị ứng ở một số bộ phận mô da, đốm đỏ. Viêm dị ứng da tại chỗ, ban đỏ, sẩn và mụn mủ là phản ứng bởi hệ thống miễn dịch và phản ứng viêm tại chỗ.
Biểu hiện triệu chứng của viêm da do Demodex thường hay gặp ở da vùng mặt, hay gặp ở lứa tuổi trung niên, đặc biệt khi hệ thống miễn dịch bị suy yếu thì chúng nhanh chóng tăng sinh số lượng con ghẻ và khi đó gây nên tình trạng viêm tại chỗ và nhanh chóng lan rộng. Ước tính khoảng 1/3 trẻ em và thanh niên trẻ tuổi, 1/2 của người lớn và 2/3 của người cao tuổi mang mầm bệnh Demodex. Tỷ lệ trẻ em thấp hơn có thể là do trẻ em tiết ra bã nhờn ít hơn so với người lớn tuổi, hiếm khi tìm thấy ở trẻ em dưới 5 tuổi.
Bệnh thương lây theo đường tiếp xúc trực tiếp hoặc có thể là do bụi có chứa trứng bám vào da, hoặc đồ dùng chung. Da tiết bã nhờn nhiều, da mặt bẩn, vết thương, môi trường độ ẩm, mỹ phẩm kích ứng, hiệu ứng thuốc bôi là các yếu thuận lợi cho bệnh phát thành và lan rộng nhanh chóng. Demodex có thể sống mọi nơi trên cơ thể nơi có nang lông và tuyến bã, nhiều nhất ở mặt đặc biệt ở mũi, trán, cằm và má. Những khu vực này có điều kiện thích hợp nhất để chúng sống, sinh sản và là nơi có nhiệt độ thuận lợi nhất cho sự phát triển.
Demodex folliculorum cũng có thể sống ở chân lông mi và có thể đó là lý do gây ra viêm, ngứa và nhiễm trùng mi mắt. Chân tóc cũng thường bị nhiễm trùng với biểu hiện ngứa. Phần miệng của Demodex sắc và có thể cắn đốt trong tế bào để hút chất dinh dưỡng cho chúng. Demodex ăn những tế bào chết, chất dầu có trong chất bã nhờn tiết ra từ các tuyến trên bề mặt da, chúng di chuyển chậm với vận tốc 8 -16 cm trong một giờ và thích nghi trong môi trường ẩm, ấm và thường hoạt động nhiều nhất trong ban đêm. Demodex sống bên trong các tuyến bã nhờn và nang lông, sau khi giao phối chúng đào hang vào da, đẻ trứng, gây nên nhiễm khuẩn và nhiễm trùng da. Trong suốt chu kỳ phát triển, các côn trùng này phá hủy lớp da mà chúng ký sinh hoặc những nơi da thường bài tiết chất nhờn để tại đó chúng đẻ trứng và chết. Sau khi chết, xác chúng trở thành chất lỏng và phân hủy bên trong da gây ra phản ứng dị ứng.
Về mặt lâm sàng, chúng biểu hiện đa dạng, con ghẻ Demodex có thể tồn tại trên da ngườikhoẻ mà không có biểu hiện lâm sàng. Đa số bệnh nhân bị bỏ sót, không được chẩn đoán viêm da do Demodex thường chẩn đoán nhầm với bệnh viêm da tiếp xúc, trứng cá đỏ hoặc viêm da quanh miệng. Mặt khác, vị trí tổn thương hay gặp ở vùng mặt khiến người bệnh bị ảnh hưởng đến chất lượng thẩm mỹ cuộc sống. Tuy nhiên, khi bệnh nhân có tồn tại với số lượng lớn Demodex trên vảy da, nang lông hoặc khi cơ thể suy giảm miễn dịch (HIV/AIDS, lao, suy thận, ghép tạng hoặc đang dùng liệu pháp chống ung thư và thuốc corticoides,..). Bệnh viêm da do Demodex có 3 thể bệnh chính:
·Viêm nang lông dạng vảy phấn (thể nhẹ nhất): biểu hiện thương tổn là các đám da đỏ, bề mặt có những vảy da, nút sừng ở nang lông, cảm giác kiến bò trên da;
·Viêm da Demodex dạng trứng cá thường do Demodex folliculorum;
·Trứng cá đỏ thể u hạt (thể này ít gặp, thường ở những người suy giảm miễn dịch).
Các loại tổn thương do Demodex gây ra: Đám đỏ da, mụn mủ, sẩn đỏ, giãn mạch, có thể gây rụng lông mày, lông my, rụng tóc, viêm bờ mi, ngứa (cảm giác kiến bò), rát vùng tổn thương. Viêm da do demodex ở vị thành niên thường xuyên chẩn đoán nhầm là mụn trứng cá vị thành niên. Viêm da do Demodex nhiều lần và nghiêm trọng thường để lại da mặt thô ráp và xấu xí.
Thông thường, các lỗ chân lông trên mũi, cằm, trán và má trở nên rộng hơn, mụn trứng cá có thể phát triển, sau một thời gian, da mặt có thể trở thành màu đỏ, các mao mạch nổi dày lên 2 bên cánh mũi. Cảm giác kiến bò trên da mặt: thường xuất hiện trên trán, mũi, má, đặc biệt là vào buổi tối và ban đêm, thường là giai đọan khi chúng giao phối. Nhiều người không nhận thức được rõ thời gian, bởi vì nó bắt đầu một cách từ từ và trở thành một phản ứng tự động. Bạn có thể quan sát thấy nhiều vết trầy xước trên khuôn mặt của bệnh nhân mà họ không nhận ra.
Ngứa trên da đầu là nguyên nhân gây ra trầy xước da đầu, như chí và gàu (nên được loại trừ để xác định điều trị cho thích hợp). Rụng tóc: trong một số trường hợp, rụng tóc sớm có thể liên quan với các hoạt động Demodex tại các lỗ chân lông.
Thái độ xử trí bệnh Demodicosis?
Về mặt điều trị? Nguyên tắc phải loại bỏ loại bỏ côn trùng Demodex càng sớm càng tốt, chống bội nhiễm hoặc các vết nhiễm trùng. Nếu loại bỏ Demodex, tình trạng nhiễm trùng dừng lại và tại các vết thương sẽ lành và trở về bình thường trở lại, lỗ chân lông sẽ trở nên nhỏ hơn và chất dầu sẽ giảm tiết hơn. Điều trị nên được bắt đầu sớm vì Demodex rất dễ lây và lây lan thông qua việc tiếp xúc với nhau như bắt tay, dùng chung quần áo, ôm, hôn nhau, sử dụng khăn chung,... Tuy nhiên, những người bị nhiễm bệnh không có dấu hiệu của bệnh lý (chỉ có khoảng 10-20% là có biểu hiện triệu chứng da). Trong thời gian bệnh, khuyên bệnh nhân không nên dùng phẩm vì đôi khi lại là yếu tố thuận lợi và điều kiện tốt cho Demodex phát triển và tồn tại lâu hơn.
Việc điều trị thì đơn giản, nhưng vấn đề phòng bệnh rất quan trọng vì thuốc sẵn có tại các quầy thuốc, rẻ tiền dể sử dụng (Kwellada lotion, Permethrin 5% , …), và tác dụng ngoại ý hiếm và tối thiểu - Permethrin dùng cho bệnh ghẻ có thể sử dụng ngay cả trên trẻ em.
Bôi mỡ salicylic, thoa mỡ hoặc gel Metronidazole kèm theo uống Metronidazole, hoặc Ivermectin cũng là một trong những biện pháp hữu ích làm giảm nhanh triệu chứng cho bệnh nhân.
A = Kwellada shampoo;
B = Kwellada lotion (5% Permethrin);
C = kem thoa trên bề mặt hoặc kem kháng sinh tương đương.
Điều tốt nhất là bệnh nhân nên rửa và vệ sinh da mặt mỗi ngày, tránh các chất tẩy rửa có dầu và chất trang điểm nhờn. Tẩy tế bào chết định kỳ để loại bỏ các tế bào da chết.
Chế độ điều trị chính là chăm sóc cá nhân tại nhà và tại công sở - nơi đang làm việc!
·Tại công sở, D. folliculorum có thể “quyến rũ” các nang lông bề mặt (follicle surface) với việcsử dụng các dịch dễ bay hơi, như là ether (không dùng tại Mỹ), đánh mạnh bề mặt ngoài, sau đó dùng dung dịch nhỏ giọt 0.5% proparacaine để rửa. 5 phút sau đó, dùng dung dịch 70% alcohol cũng áp dụng theo cách này. Chế độ điều trị như thế cho thấy thành công trong việc giảm các triệu chứng và số lượng mạt vào cuối tuần thứ 3. Ether và alcohol nên sử dụng cẩn trọng và không nên cho tiếp xúc với giác mạc;
·Các chuyên gia khuyên nên chăm sóc tại công ở và tại nhà. Chế độ chăm sóc tại nhà gồm lau rửa mí mắt 2 lần/ ngày bằng xà phòng trẻ em pha loãng trong nước với hàm lượng 50% và dùng mỡ kháng sinh vào ban đêm cho đến khi giải quyết các triệu chứng;
·Các hình thức điều trị khác đã được áp dụng như chống Demodex. Hầu hết các cách điều trị liên quan đến thao vào trên lông mi vào ban đêm để tránh hiện tương đào hầm hoặc loại chúng ra khỏi vùng nhiễm nang lông khác.
+Mercury oxide 1% thoa thường xuyên cũng có thể dùng;
+Pilocarpine gel giảm đi số lượng mites và giảm nhẹ triệu chứng ngứa trên 11 bệnh nhân tại khu điều dưỡng;
+Celerio và cộng sự đặt ra giả thuyết rằng Pilocarpine có gây độc trực tiếp cho mites vì nó tác động muscarinic trên nó và làm ức chế hô hấp cũng như di động của chúng;
·Liệu pháp và chế độ điều trị phổ biến cuối cùng gồm có dùng dầu cây trà 50% với dầu dừa Macadamia, áp dụng với các tip applicator bằng cotton sau khi nhỏ một giọt tetracaine;
+Loại bỏ các lông mi và phần lông bị nhiễm bệnh bằng cách tránh cho chúng tái nhiễm lại, nên phải vệ sinh tại chỗ. Cố gắng đưa dầu vào trong rễ lông mi và dọc theo mi mắt để giết bất kỳ trứng nào còn sống;
+Cũng cần thiết điều trị các phần lông mày. 3 lần thoa, 10 phút cho mỗi lần chăm sóc; điều trị hoàn thành với hợp chất dầu trà 20%. Lặp lại sau đó 3 lần, khoảng cahcs một tuần;
+Chế độ chăm sóc ở nhà gồm các bước sau:
§Sử dụng xà phòng cây trà trên tóc, mi mắt mỗi ngày;
§Sử dụng xà phòng trà hoặc rửa mặt mỗi ngày;
§Mua các hộp mỹ phẩm trang điểm mới và bỏ các hôp trang điểm cũ; không trang điểm trong vòng 1 tuần;
§Giặt sạch các khăn trải giường và mua gối mới;
§Kiểm tra cả chồng hoặc vợ, hoặc người bạn tình; nếu có cả hai thì nên điều trị cho cả hai;
§Kiểm tra và khám các thú cưng đang chăm sóc và nuôi trong nhà;
§Trong vòng tuàn đầu tiên, việc sử dụng dàu thoa ban đêm sau khi dùng xà phòng trà tẩy rửa. Nếu viêm xảy ra, nên phối hợp thuốc thoa kháng sinh - steroid có thể dùng trong một tuần. Rồi sau đó thay thế bằng một chất thoa kháng sinh đơn thuần hoặc kèm với hợp chất trà 10%.
Lưu Hiểu Khánh, du hoc sinh tại Hà Lan, hieukhan16_luu@....com.fr,...
Hỏi: Thưa bác sĩ Huỳnh Quang, cháu la một sinh vien dang theo học y tế công cộng tại Hà Lan dược 2 năm rồi, gần đây trong chương trình có hướng dẫn làm tiêu luận riêng phần về chuyên đề các bệnh ở các xứ nhiệt đới như ơ Việt Nam. Cháu có xem rất nhiều tài liệu và rất thích trang website của bác sĩ Huỳnh Quang viết và mong muốn gởi bài sau này khi ra trường. Để viết phần tổng quan chung về bệnh lý giun sán ở người, cháu đang tìm về các hội chứng và triệu chứng hay gặp nhất, vậy để viết một cách đầy đủ nhất, cháu xin bác sĩ cho cháu tài liệu được không? Nếu được, cháu xin cảm ơn!
Trả lời: Trước hết chúng tôi xin đính chính một tý về trang website này không phải là của bác sĩ Quang mà đây là trang tin điện tử của toàn Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn, trong đó trưởng ban biên tập là PGS.TS. Triệu Nguyên Trung - Viện trưởng chịu trách nhiệm nội dung nhé, bác sĩ Quang là một trong số tác giả tham gia viết bài mà thôi.
Cảm ơn câu hỏi của bạn, và chúng tôi xin được trả lời như sau: Trong vòng gần 10 năm nay, nhiều cơ sở điều trị lại triển khai thêm phòng xét nghiệm và điều trị chuyên/ hoặc thêm, bên cạnh bệnh truyền nhiễm và nội khoa hoặc cơ ở điều trị đa khoa có sẵn trước đó là chẩn đoán và điều trị bệnh ký sinh trùng, nhất là chuyên xét nghiệm và chẩn đoán, điều trị bệnh giun sán đã gây ngứa cho nhiều bệnh nhân trong thời gian qua, bất luận ngứa đó là do nguyên nhân gì? Cứ xét nghiệm ra một bộ 5-6 con giun sán thì dương tính con nào thì điều trị con nấy, trong khi không cần biết bệnh nhân có triệu chứng bệnh thật sự hay không (?). Điều đó, đã cho thấy một tỷ lệ dương tính với huyết thanh đối với một số bệnh do ấu trùng giun sán tự nhiên tăng lên đột biến, thực hư ra sao? Chúng ta cần có nhưng nghiên cứu y học chứng cứ để đưa ra các “frame” chẩn đoán và phác đồ điều trị cụ thể cho từng bệnh. Tuy nhiên, qua thăm khám và điều trị nhiều bệnh nhân nhiễm ký sinh trùng, hoặc không nhiễm ký sinh trùng nhưng có biểu hiện nhiều triệu chứng tựa như ký sinh trùng thật sự, khiến cho nhiều thầy thuốc dễ nhầm lẫn và chẩn đoán lầm, thì ắt nhiên đưa ra toa thuốc cũng phải nhầm. Chúng tôi xin đưa ra 14 triệu chứng hay gặp trên bệnh nhân nhiễm ký sinh trùng nói chung, như một chia sẻ cùng các đồng nghiệp trong và ngoài ngành ký sinh trùng.
Hơn một nữa dân chúng châu Mỹ sẽ bị nhiễm với một loại ký sinh trùng đường ruột vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời. Thế nhưng, nhiều bệnh trong số đó chưa nhận ra dấu chứng và hội chứng của nhiễm ký sinh trùng vì chúng có thể xảy ra nhiều tuần thậm chí nhiều năm sau kể từ khi nhiễm và vì một tình trạng nhiễm ký sinh trùng thường na ná với một số bệnh lý khác. Chúng ta đều biết rằng 50% số ca nhiễm các loại ký sinh trùng giun sán không biểu hiện lâm sàng và khi biểu hiện thì bệnh cũng rất mơ hồ. Qua nghiên cứu và tống hợp, các nhà ký sinh trùng đã tổng kết có 14 triệu chứng hay gặp do bệnh ký sinh trùng gây ra. Các triệu chứng hay gặp khi nhiễm ký sinh trùng chính là táo bón, tiêu chảy, chướng bụng, đầy hơi, kích thích ruột, đau cơ và khớp, thiếu máu, rối loạn giấc ngủ, nghiến răng, suy nhược mạn tính và rối loạn chức năng miễn dịch.
1. Táo bón (Constipation)
Một số loại giun sán thật sự nhiễm đủ lớn gây ra tình trạng tắc nghẽn đường đi của các chất dinh dưỡng và chất thải ở một vài điểm trong hệ thống tiêu hóa. Một số trường hợp nhiễm ký sinh trùng nặng trong đường mật đã dẫn đến tắc mật, vàng da hoặc tắc ruột à khiến chó vấn đề nhu động ruột rất khó khăn, dẫn đến triệu chứng tệ hơn và táo bón nặng hơn.
Điều thú vị, khi bệnh giun sán thì nhiều thầy thuốc lại cho rằng hay rối loạn tiêu hóa dạng đi phân lỏng, nhầy, sệt, không thành khuôn chứ ít ai ngờ rằng bị táo bón, nhưng thực tế đã có như các nguyên nhân trên.
2. Tiêu chảy (Diarrhea)
Một số triệu chứng khác cũng hay gặp trong bệnh lý ký sinh trùng, là hình thành nên các hình thái lâm sàng tiêu chảy, đi phân nhiều nước, nhiều lần và lỏng. nhiều ký sinh trùng sinh ra chất prostaglandin sẽ dẫn đến mất các ion natri và chlor khỏi cơ thể. Điều này có thể quay lại gây nên tiêu chảy. Tiến trình này thật sự đặc biệt trong các ca bệnh nhiễm đơn bào.
Một số bệnh hay gây rối loạn tiêu lỏng nhiều lần trong ngày như ấu trùng giun lươn, giun tóc, amip, giardiasis, sán dây, giun đầu gai,…dễ nhầm với một số bệnh nội khoa như viêm dại tràng kích thích, rối loạn vi khuẩn và men tiêu hóa.
3. Chướng bụng và đầy hơi (Gas and bloating)
Ký sinh trùng sống trên đoạn trên của ruột non, có thể gây nên các triệu chứng ruột như đầy hơi, chướng bụng. Hiện tượng này xảy ra thường xuyên là có thể nghĩ đến dấu kinh điển của nhiễm ký sinh trùng. Các rối loạn này thường nặng hơn do ăn uống các thực phẩm khó tiêu hóa như đậu và thịt. Chướng bụng và đầy hơi đôi khi biểu hiện làm chúng ta dễ nhầm lẫn với các bệnh lý nội khoa tiêu hóa khác, nhất là chứng khó tiêu có hay không có vi khẩn Helicobacter pylori.
4. Hội chứng kích thích ruột (Irritable Bowel Syndrome)
Một trong các triệu chứng hay gặp hơn của bệnh ký sinh trùng là hội chứng kích thích ruột. Không thường gặp các triệu chứng của hội chứng IBS là gây ra bởi ký sinh trùng đường ruột, vì chúng có thể đào xới và dính các phần ruột với nhau với thành ruột. Điều này có thể thường gây kích thích và viêm, có thể dẫn đến co thắt cơ, tắc ruột và kém hấp thu chất dinh dưỡng. Các chất béo đặc biệt khó tiêu hóa trong thời điểm bị hội chứng này.
Hội chứng này cũng có thể liên quan đến các đơn bào đường tiêu hóa và đã được mô tả trong bài “một số hội chứng hiếm gặp nhưng nguy hiểm trong bệnh ký sinh trùng”.
5. Đau cơ và khớp (Joint and muscle aches)
Các ký sinh trùng đường ruột cũng có thể ảnh hưởng lên quá trình vận động và di chuyển khắp cơ thể. Các triệu chứng này không thường gặp vì các ấu trùng, hoặc các nang sán đóng kén trong dịch khớp, thậm chí trong các cơ. Điều này gây ra đau và kích thích làm cho chúng ta dễ nhầm với viêm khớp. Đau khớp và cơ cũng có thể gây ra bởi bản thân đáp ứng miễn dịch của cơ thể với nhiễm ký sinh trùng.
Đau khớp và cơ là các triệu chứng do ký sinh trùng mà không ít các thầy thuốc đã từng bỏ qua và không quan tâm đến bệnh lý mà chỉ quy kết rằng viêm khớp do tuổi lớn, do chấn thương, do bệnh lý nghề nghiệp.
6. Thiếu máu (Anemia)
Có một vài loại ký sinh trùng có thể dính lại với nhau và dính, bám chặt vào niêm mạc ruột và lấy đi các chất dinh dưỡng khỏi cơ thể người bệnh. Trong các trường hợp nhiễm trùng nặng, các loại ký sinh trùng nặng có thể dẫn đến mất máu trầm trọng, đặc biệt giun móc, giun mỏ, giun tóc và các loại sán dây, sự đồng nhiễm cùng lúc nhiều loài giun sán khác nhau sẽ đồng thời làm cho tình trạng suy dưỡng .
7. Dị ứng (Allergies)
Ký sinh trùng đường ruột có thể gây kích thích và gây viêm, điều này có thể làm khó khăn cho vấn đề tiêu hoa đối với một số loại thức ăn. Đáp ứng cơ thể với các thực phẩm khó tiêu hóa này có thể làm tăng bạch cầu ái toan, đây là một hệ thống chống đỡ của miễn dịch. Tiếp đó, các bạch cầu ái toan tham gia vào mô cơ thể và phản ứng dị ứng.
8. Tình trạng da (Skin conditions)
Ký sinh trùng có thể gây ra tình trạng ly giải các nội tiết và hệ thống bảo vệ của miền dịch có thể dẫn đến kích thích dễ. Mày đay, phát ban, rỉ nước và các phản ứng dị ứng khác thường gặp trong các bệnh ký sinh trùng. Nhiễm trùng các đơn bào có thẻ cũng gây loét, sưng phồng, loét, tổn thương và viêm da.
9. Sinh khối u (Tumors)
Cơ thể có thể hình thành các khối giống như u trong khi đáp ứng với nhiễm ký sinh trùng cũng được biết như là phản ứng u hạt. Các khối u này hình thành do “encase” của các ấu trùng và trứng của ký sinh trùng. Các u hạt thường phát triển trong đại tràng hoặc trên thành trực tràng, nhưng chúng cũng tìm thấy trong phổi, gan, khoang phúc mạc và bàng quang.
10. Bồn chồn lo lắng (Nervousness)
Các ký sinh trùng ly giải các sản phẩm thải bỏ và các chất độc vào trong máu cơ thể. Trong nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc mạn tính, các độc tố này có thể kích thích hệ thần kinh trung ượng, dẫn đến ngủ không ngon giấc, căng thẳng thần kinh và trạng thái lo lắng. Các hình thái lâm sàng này là triệu chứng thường gặp của bệnh khi ký sinh trùng nằm trong cơ thể của chúng ta.
11. Rối loạn giấc ngủ (Sleep disorders)
Các ký sinh trùng đường ruột có thể gây nên tình trạng kích thích và rối laonj mô hình giấc ngủ, khiến cho khó rơi vào giấc ngủ và ngủ ngon. Vào ban đêm, cơ thể làm việc để đào thải độc tố thông qua gan. Nhiễm trùng ký sinh trùng có thể làm gián đoạn tiến trình này và rối loạn nhịp sinh học của cơ thể. Thực tê,s một số ký sinh trùng có thể di chuyển ra khỏi hậu môn vào ban đêm gây ngứa, rối loạn và kích thích.
12. Ngiến răng (Teeth grinding)
Triệu chứng này của bệnh ký sinh trùng cũng có thể gây thói nghiến răng lúc ngủ (“bruxism”), hoặc nghiếng răng bất thường, siết chặt và nghiếng răng. Tình trạng này thường xảy ra vào ban đêm và nó có thể liên kết với tình trạng ngủ không yên và lo lắng gây trên cơ thể do sự ly giiar các chất thải và độc tố của ký sinh trùng vào trong máu bệnh nhân.
13. Suy nhược mạn tính (Chronic fatigue)
Ký sinh trùng có thể lớn về dung lượng ký sinh trùng và làm ly giải dịch cơ thể, thể chất, tâm thần kinh và mức độ cảm xúc. Nó có thể dẫn đến kém hấp thu protein, carbohydrates, chất béo và vitamine, đưa ra khỏi cơ thể chất dinh dưỡng và năng lượng. Như một hậu quả, các triệu chứng khác hay gặp thì triệu chứng này dẫn đến suy nhược mạn tính với các triệu chứng như suy nhược, đau, lãnh đạm, thờ ơ, trầm cảm, khó tập trung và suy giảm ý thức.
14. Rối loạn miễn dịch (Immune dysfunction)
Thường khi bạn có ký sinh trùng đang sống trong cơ thể của bạn, nó sẽ dẫn đến mất đi các chất dinh dưỡng ra khỏi cơ thể hoặc bản thân ký sinh trùng tự ăn mất các chất dinh dưỡng, làm cho hoạt động của hệ thống miễn dịch cung cấp nghèo nàn khi cung cấp vitamine, khoáng chất và nguồn năng lượng cho cơ thể. Các ký sinh trùng cũng kích thích sinh IgA, là một trong những yếu tố bảo vệ chống lại các vật lạ vào cơ thể. Theo thời gian, sự kích thích quá mức có thể làm cho kiệt quệ cơ thể để sinh immunoglobulin A, để cho cơ thể nhạy cảm với các cơn nhiễm vi khuẩn, nấm men, nấm, virus và các vật lạ xâm nhập.
Nguyễn Khánh Hòa, KV5, P> Nhân Thanh, chợ Quang Trung, 091234…
Hỏi: Tôi có nghe nói bí đỏ cũng là một vị thuốc để số giun sán trong cơ thể người bệnh ngoài các hạt bí khác và nước cốt dừa, hạt cau, hạt bí ngô,… có đúng không? Mong các sĩ giải đáp giúp. Xin cảm ơn quý bác sĩ và y sĩ tại Phân Viện sốt rét Quy Nhơn!
Trả lời: Trước hết chúng tôi xin cảm ơn độc giả đã đặt ra một câu hỏi khá thú vị để có dịp chúng tôi chia sẻ thông tin về các bài thuốc dân gian và y học cổ truyền đã áp dụng trong y học gia đình, nhất là vấn đề điều trị bệnh giun sán. Nhân câu hỏi của bạn Nguyễn Khánh Hòa, chúng tôi xin gởi đến bạn bài viết của GS.TS. Phậm Xuân Sinh đè cập “Bí đỏ - Vị thuốc nhuận tràng, trị giun sán” đến vấn đề này:
Bí đỏ còn gọi là bí ngô, bí rợ, hay nam qua. Bí đỏ là cây vừa được dùng làm thực phẩm vừa được dùng làm thuốc, được trồng ở khắp các vùng miền trong nước ta. Tất cả các bộ phận của cây bí như lá non, ngọn bí, nụ hoa, quả non đều có thể sử dụng làm rau ăn rất ngon và bổ, trở thành món ăn đặc sản của nhiều vùng. Rau bí còn được sử dụng để chữa các chứng đau đầu chóng mặt, dưới dạng xào, nấu canh ăn, mỗi lần có thể vài trăm gam. Tuần lễ nên dùng 1 - 2 lần.
Cùi bí còn gọi là phần thịt quả bí chứa tới 87% nước, 1,40% protid, 0,5% lipid, 9% chất không có nitrogen, 2,80% chất đường, xanthophin các vitamin B1, B2, C… và nhiều nguyên tố vi lượng như Fe, Mn, Cu, Zn… Còn chứa nhiều carotene, một chất chống ôxy hóa mạnh, tăng cường khả năng miễn dịch, phòng bệnh và chống lão hóa cho cơ thể. Theo kinh nghiệm dân gian, cùi bí ngô có tác dụng bổ thần kinh, điều hòa tỳ vị, bổ khí lực, nhuận tràng, dùng trị đau đầu, suy nhược thần kinh và chống táo bón. Người ta khuyên nên thường xuyên ăn quả bí ngô, ít nhất là 2 lần trong tuần. Hạt bí có nhiều acid amin: alanin, valin, leucin, histidin, cystin, calanin, arginin, lysine và chứa nhiều dầu béo, được dùng để làm thuốc trị giun và sán. Vì hạt bí chứa nhiều acid amin và dầu béo, khi sao vàng có mùi thơm ngon, bùi và ngậy khi ăn. Chính vì vậy mà hạt bí đỏ được ưa dùng để tiếp khách trong các dịp lễ tết, liên hoan, cưới hỏi.
Cách chế biến hạt bí để làm thuốc tẩy giun sán: Sau khi bổ quả bí ra, thu lấy toàn bộ phần hạt, loại bỏ phần màng, rửa sạch, phơi khô. Trước khi dùng sao qua cho giòn rồi tiến hành theo 2 cách, một là để cả vỏ, với liều 300g cho người lớn, trẻ em tùy tuổi, giảm lượng cho phù hợp, chẳng hạn dưới 5 tuổi dùng khoảng 50 - 70g, từ 5 - 7 tuổi dùng 100g, 7 - 10 tuổi dùng 150g. Nên tán thành bột thô, thêm khoảng 2 thể tích nước (so với khối lượng hạt), sắc nhỏ lửa, hoặc đun cách thủy khoảng 1,30 - 2 giờ. Gạn, lọc lấy dịch, có thể thêm chút đường cho dễ uống. Uống hết một lần vào lúc đói; cách thứ 2 là đem hạt bóc hết vỏ ngoài, lấy nhân, tán thành bột mịn, thêm chút nước đun sôi để nguội, một chút mật ong hoặc đường, quấy đều. Ăn một lần vào lúc đói. Người lớn dùng liều 100g, trẻ em 3 - 4 tuổi dùng 30g, 5 - 7 tuổi dùng 50g, 7-10 tuổi dùng 75g. Thông thường, trước khi uống thuốc 6 - 9 giờ, người ta thụt nhẹ hoặc uống liều thuốc tẩy nhẹ (30g magnesi sulfat). Sau khi uống thuốc, nằm nghỉ khoảng 3 giờ rồi đi ngoài trong một chậu nước ấm, chú ý cần nhúng cả phần mông vào chậu nước để có nhiệt độ đủ ấm cho giun sán bò ra.
Do hạt cau chứa các alkaloid arecolin có tác dụng độc đối với thần kinh của con sán, gây tê liệt các cơ trơn của sán, và làm cho sán không bám vào thành ruột được và bị tống ra ngoài do tác dụng của một liều thuốc tẩy nhẹ. Vì vậy nếu phối hợp 2 loại dược liệu hạt bí ngô và hạt cau, sẽ đạt hiệu quả cao trong việc điều trị sán trên người. Sau 2 giờ uống hạt bí ngô thì uống nước sắc hạt cau với lượng 30g đối với trẻ em từ 10 tuổi trở xuống, với phụ nữ và đàn ông bé nhỏ, dùng 50 - 60g, người lớn 80g. Cho hạt cau vào sắc với 500ml nước. Sắc còn 150ml, gạn lấy nước. Nhỏ dung dịch gelatin 2,5% để tủa hết tannin để loại bỏ chất chát, khó uống. Gạn, lọc lấy phần nước trong để uống. Sau khi uống nước hạt cau 30 phút thì uống liều thuốc tẩy với 30g magnesi sulfat. Nằm nghỉ, khi muốn đi ngoài thì cũng tiến hành theo cách ở trên.
Hy vọng với phàn trả lời ở trên đã phần nào giải đáp thắc mắc của bạn thỏa đáng. Thân chúc bạn khỏe!
Huỳnh Văn Tu. Loveimage234@yahoo.com, TP.HCM
Hỏi: Xin các bác sĩ cho em biết em bị bệnh nhiễm trùng đường tiểu đã điều trị nhiều năm rồi tại rất nhiều bệnh viện lớn nhỏ khác nhau, hiện đại cũng như cổ kính, thuốc tây và đông y đủ cả nhưng khi đi xét nghiệm lại đều vẫn còn dương tính. Hôm qua, em có nghe bạn mách là rau cây đừa nước trị được bệnh này. Thức hư ra sao, mong các bác cho em biết, em kính cảm ơn!
Trả lời: Cảm ơn về câu hỏi của bạn, quả thật theo y văn thì nhiều thầy thuốc có sử dụng rau dừa nước để điều trị viêm đường tiết niệu khi các phương thuốc khác không thấy hữu hiệu nữa, Tuy nhiên, chúng tôi cũng muốn nói rằng để điều trị tận gốc nhiễm trùng đường tiểu thì cần phải tìm nguyên nhân, đôi khi khó chẩn đoán ra, có khi phải điều tị cả bạn tình, vợ hoặc chồng nữa đó.
Liên quan đến câu hỏi của bạn, chúng tôi xin trình bày coh bạn một bài viết của tác giả, lương Minh Phúc cho biết rau dừa nước vị thuốc gọi Du long thái, loại rau lâu nay được hái ngọn lá non làm rau ăn mát bổ và trị chứng tiểu buốt tiểu rắt, tiểu ra máu (viêm đường tiết niệu). Rau có tên khoa học: Jussiaea repens L.
Theo y học cổ truyền rau dừa nước có vị ngọt nhạt, tính hàn; có tác dụng thanh nhiệt giải độc lợi tiểu, tiêu thũng. Thường dùng trị phù thũng, tiểu đục, tiểu buốt, tiểu rắt, tiểu ra máu, ho khan, nóng sốt, lên ban sởi, mụn nhọt, áp xe... dùng dưới dạng cây tươi hoặc phơi khô. Một số món ăn, vị thuốc từ rau dừa nước như:
-Chữa tiểu buốt rắt, tiểu ra máu (chứng trọc lâm): dừa nước tươi 200g sắc nước uống ngày vài lần.
-Chữa tiểu ra dưỡng chấp (viêm cầu thận): rau dừa nước, mã đề mỗi vị 50-100g sắc uống.
-Chữa phụ nữ có khí hư màu vàng (do tỳ thận thấp nhiệt): rau dừa nước, rau mã đề, mỗi thứ 100g, lá trinh nữ hoàng cung 2 lá sắc uống ngày 3 lần, một đợt 5-7 ngày.
-Chữa ho khan (do phế nhiệt): rau dừa nước 100g, rau má tươi 100g, gừng 3 lát sắc uống.
-Chữa bệnh trẻ em đầu sài lở: cây tươi giã, vắt nước cốt trộn với dầu mè đắp ngoài.
-Chữa sỏi tiết niệu: rau dừa nước, rau ngò om (rau ngổ), mỗi thứ 100g sắc nước uống ngày 3 lần, uống nhiều ngày.
-Chữa sốt lên ban sởi: rau dừa nước, rau kinh giới, rau ngò rí (rau mùi) tươi mỗi vị 40-60g sắc, gừng tươi 3 lát sắc uống ngày vài lần.
-Rau dừa nước dân gian còn dùng chữa tăng huyết áp, kèm chân phù tiểu ít, mụn nhọt bằng cách sắc uống, chữa áp xe, viêm tuyến vú, tuyến mang tai, bệnh zona, chàm, rắn cắn bằng cách cây tươi rửa sạch giã nhuyễn vắt nước uống trong, bã đắp ngoài.
Không nên dùng cho người già thận khí hư ,tiểu nhiều, tiểu không tự chủ.
Với phần phúc đáp trên, bạn sẽ có thêm nhiều thông tin liên quan đến rau dừa nước chữa bệnh bạn nhé.