1. Hồng Thắm-mrminh79@yahoo.com.vn- 315 QL91 An khánh NK CT
Hỏi: Xin hỏi về cách pha giêm sa đạt tiêu chuẩn để nhuộm một tiêu bản đẹp để soi ký sinh trùng sốt rét? (kỹ thuật pha, cách pha, hóa chât, dụng cụ thuốc thử, ...)
Trả lời: Chào bạn, cảm ơn bạn đã quan tâm đến trang Website của Viện chúng tôi. Sau đây, chúng tôi giới thiệu quy trình nhuộm tiêu bản máu để xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) bằng thuốc nhuộm giêm sa mà bạn yêu cầu. Dưới đây là những bước để thực hiện một làm máu đạt chuẩn:
Chuẩn bị dụng cụ và hoá chất:
Dụng cụ:
Giá đặt tiêu bản máu (TBM),
Giá hong khô TBM,
Ống đong, chia vạch (ml),
Cốc có mỏ, chia vạch (ml),
Pipette các loại, chia vạch (ml),
Công – tơ hút (dùng để hút dung dịch giêm sa nhuộm pha trong cốc có mỏ),
Quả bóp cao su,
Đồng hồ phút.
Hoá chất:
Giêm sa mẹ (giêm sa cốt),
Cồn tuyệt đối methanol để cố định giọt mỏng,
Dung dịch đệm (buffer solution) hoặc nước cất trung tính pH = 7 – 7,2.
Nồng độ pha dung dịch giêm sa nhuộm và thời gian nhuộm:
Nhuộm nhanh: chọn nồng độ 10%, thời gian nhuộm 5 – 10 phút,
Nhuộm thường quy (chậm): chọn nồng độ 3 – 5%, thời gian nhuộm 30 – 45 phút.
Cách tiến hành pha dung dịch giêm sa nhuộm:
Dùng pi pét lấy dung dịch giêm sa mẹ với lượng thể tích cần, cho vào ống đong,
Tiếp tục cho dung dịch đệm hoặcnước cất trung tính vào ống đongđến vạch yêu cầu,
Dùng đũa thuỷ tinh hoặc pipette nhẹ nhàng trộn đều.
Tiến hành nhuộm tiêu bản:
Đặt tiêu bản máu đã khô (làm khô giọt máu tự nhiên hoặc dùng máy sấy tóc trường hợp khẩn cấp và nếu có giọt đàn phải cố định bằng cồn methanol và để khô) vào giá nhuộm để nơi bằng phẳng, ít va chạm, tránh ánh sáng mặt trời chiếu vào...Mỗi tiêu bản phải cách nhau một khoảng nhất định.
Dùng piptte lấy dung dịch giêm sa nhuộm nhỏ nhẹ nhàng phủ lên giọt máu (nếu giọt dày và giọt đàn trên cùng một tiêu bản, nên nhỏ giọt đàn trước). Tránh lan dung dịch giêm sa nhuộm giữa 2 giọt máu, trong trường hợp tiêu bản điều tra sốt rét (hai người/ 1 tiêu bản).
Cài đặt thời gian rửa tiêu bản máu,
Khi đã đủ thời lượng nhuộm, dùng cốc có mỏ lấy nước sạch xối nhẹ nhàng lên một góc tiêu bản cho đến khi nước trong thì dừng. Chú ý: không được đổ thuốc nhuộm trước khi rửa, khi xối rửa chỉ để hơi nghiêng giá nhuộm tiêu bản, quan sát nếu thấy giọt máu bền thì tiếp tục nghiêng giá nhiều hơn.
Chuyển tiêu bản máu sang giá hong, để nơi thoáng mát,tránh bụi và ánh sáng mặt trời chiếu vào. Ở cơ sở điều trị nên dùng máy sấy tóc, cài mức độ nhỏ để làm khô tiêu bản máu.
Trên đây,là tư liệu được tham khảo từ nguồn Tổ chức y tế thế giới (WHO), các sách để dạy cho các học viên chuyên ngành ký sinh trùng và qua thực tiễn.
Bạn thân mến! Việc làm tiêu bản máu đạt chuẩn, nghĩa là tiêu bản có hình thức đẹp (nhìn bằng mắt thường) và KSTSR bắt màu đẹp (qua kính hiển vi, tuỳ theo loại giọt máu: các yếu tố để chẩn đoán KSTSR rõ) cần đòi hỏi các kỹ thuật khác phải làm tốt theo, như: chất lượng pha giêm sa mẹ, nước để pha dung dịch thuốc nhuộm, làm và bảo quản tiêu bản máu v.v…Do đó, để có một tiêu bản máu đạt chuẩn chúng ta phải làm tốt mọi khâu. Và chúng tôi cũng khẳng định rằng: bước nhuộm tiêu bản máu rất quan trọng góp phần chẩn đoán chính xác KSTSR.
Nhân đây, chúng tôi gợi ý cho bạn: Nước để pha dung dịch giêm sa nhuộm rất quan trọng, nếu bạn không có dung dịch đệm, nước cất trung tính bạn có thể chọn nguồn nước giếng tốt, nước lọc để uống hoặc nước mưa và nên thử nghiệm trước.
Thân chúc bạn thành công!
2. Phạm Văn Liên- momimo_jionsea@yahoo.com- quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng
Hỏi: Xin chào ban biên tập trang web viện sốt rét kí sinh trùng Quy Nhơn. Tôi năm nay 54 tuổi, xin viện tư vấn giúp tôi điều trị bệnh giun đầu gai. Ngày 14/7/2010, tôi xét nghiệm công thức máu thì kết quả có bạch cầu ái toan eosin là 7.56% ( bình thường là 2 - 6). Sau đó tôi xét nghiệm lại làm vi sinh kết quả Gnathostoma (+) 1.22, chỉ số bình thường là OD < 1.0 (IgG). Tôi được giải thích là tôi mắc bệnh giun đầu gai. Cách đây khoảng vài tháng, nhất là những ngày gần đây tôi bị đau ở hạ sườn phải, thường xuyên bị mất ngủ căng thẳng. Kết quả xét nghiệm sinh hoá: AST (SGOT) = 19 U/L,ALT (SGPT) = 21 U/L, GGT = 41.2 U/L, Bilirubin T.P = 13.2 micromol/l, Bilirubin T.T = 3.3 micromol/l. Xin quý viện giúp tôi pháp đồ điều trị bệnh giun đầu gai. Tôi chân thành cảm ơn.
Trả lời: Trước hết chúng tôi xin chân thành cảm ơn đọc giả đã quan tâm và đặt câu hỏi liên quan đến bệnh đầu gai của bạn. Với kết quả xét nghiệm sinh hóa, đặc biệt về đánh giá chức năng gan mật hiện có của bác là hoàn toàn nằm trong khoảng bình thường. Riêng xét nghiệm giun đầu gai Gnathostoma spinigerum (+) và tăng loại bạch cầu ái toan so với mức bình thường kèm theo gần đây bác bị đau vùng hạ sườn (P) cùng với triệu chứng mất ngủ, song rất tiếc bác không cho chúng tôi biết các triệu chứng lâm sàng khác như hội chứng dị ứng, mày đay, tiêu hóa như thế nào, nhức đầu hay không, có mờ mắt không?,…ngay cả việc trong tiền sử bác có thường xuyên dùng các thức ăn hải sản nhưng chưa được nấu chín (ăn dạng semi- hoặc các món ăn theo cách ché biến của Nhật Bản cùng với mù tạc,…), hoặc trong công thức máu ngoài các chỉ số trên còn chỉ số nào khác bất thường không, do đó chúng tôi rất khó tư vấn chính xác cho bác để quyết định điều trị hay không?
Nếu vì chỉ có xét nghiệm Gnathostoma spinigerum (+) và tăng loại bạch cầu ái toan so với mức bình thường mà đưa quyết định điều trị một phác đồ giun đầu gai e rằng “không tiện” cho bác và băn khoăn cho chúng tôi vì [1] xét nghiệm Gnathostoma spinigerum (+) có thể là dương tính giả vì khả năng kết quả từ nhiễm chéo với một loại giun tròn khác cũng là có thể chứa không phải nhất nhất là giun đầu gai; [2] tăng loại bạch cầu ái toan so với mức bình thường có thể gặp trong rất nhiều trường hợp, ngay cả khi bác bị nhiễm giun đũa hoặc loại giun tròn thông thường nào khác cũng có thể tăng chỉ số này, hoặc bác đang bị dị ứng hoặc bị ngứa do một nguyên nhân nào khác cũng bị tăng chỉ số này,…
Do đó, trước khi chúng tôi đưa ra một đơn thuốc cụ thể điều trị giun đầu gai cho bác, xin vui lòng cung cấp cho chúng tôi các thông tin trên, cả trọng lượng cơ thể của bác nữa để cho thuốc cho hợp lý và chính xác vì phần lớn các thưốc điều trị giun sán có độc tính nhất định khi chúng ta dùng liều cao bác ạ. Lần nữa, kính chúc bác khỏe và sơm điều trị bệnh khỏi!
3. Nguyễn Khiêm Cung- cungnk.ttc@gmail.com- Hải Dương- 0912076737
Hỏi: xin cho tôi hỏi: tôi sống tại khu vực có nhiều rĩn, mỗi lần bị rĩn đốt là sưng tấy, đau nhức, mẩn đỏ, sau đó thành mụn bằng đầu đũa, phải 1-2 tháng mới khỏi, để lại các vết sẹo trên da. Các bác sĩ cho tôi biết có loại thuốc nào bôi hoặc chữa trị sau khi bị đốt, hoặc cách phòng chống không bị đốt. Trân trọng cảm ơn!
Trả lời: con rĩn mà bạn đề cập ở trên chắc là bạn muốn nói đến con Dĩn (hay có nơi còn gọi là con Dãn), tên khoa học là Chironomidae. Dĩn là loại côn trùng lớp hai cánh, hút máu; Con dĩn rất giống muỗi nhưng nhỏ hơn , kích thước 1-2 mm, có vòi ngắn và không có vẩy. Dĩn có màu nâu đen, chân dài, trên cách có lông. Dĩn đẻ ở nơi có nhiều mùn, rác, lá cây mục nát, đất ẩm, hốc cây, bùn …
| |
Con Dĩn (Chironomidae) | Con Dĩn trưởng thành đang hút máu |
Chỉ có Dĩn cái là hút máu, nó có thể hút máu người, gia súc hoặc máu muỗi (Anopheles). Hoạt động của Dĩn phụ thuộc vào ánh sáng, tốc độ gió, mưa, nắng … Có loài thì hút máu vào ban đêm (các loài thuộc Chi Culiciodes) – các loài này phổ biến ở Việt Nam; có loài hút máu vào ban ngày (Chi Leptoconops), trời càng nắng chúng hút máu càng mạnh; còn các loài thuộc Chi Lashiohelea thường hút máu vào buổi sáng hoặc lúc không có ánh nắng. Đặc biệt khi có cơn giông, Dĩn xuất hiện thành từng đám ở ngoài trời hoặc xâm nhập vào nhà hút máu; thường thấy chúng bay thành đám quanh đầu và chích đốt vào mặt, phần lớn Dĩn đều có tập tính ưa thích đốt mồi ngoài nhà, gây nên sự phiền hà cho sinh hoạt của con người. Dĩn đốt gây cảm giác ngứa, khó chịu, có thể nổi mẫn, dị ứng. Do kích thước cơ thể của Dĩn nhỏ, nên nó có thể luồn vào kẽ tóc, chui qua màn ngủ để hút máu, gây ngứa ngáy, mất ngủ, ảnh hưởng đến sức khỏe.
Ở Châu Phi, Dĩn truyền một số mầm bệnh như: giun chỉ, viêm não … Nhưng ở Việt Nam, vai trò truyền bệnh của Dĩn chưa được xác định.
Đến nay chưa có biện pháp phòng chống dĩn một cách hiệu quả. Tuy nhiên, việc bảo vệ cá nhân sẽ giúp chúng ta giảm sự tiếp xúc vơi dĩn chích đốt. Vì có vòi ngắn nên dĩn không thể chích đốt xuyên qua quần áo được và do có kích thước nhỏ nên dĩn có thể dễ dàng chui qua các loại màn ngủ thông thường; Vì thế, để phòng tránh dĩn chích đốt, chúng ta có thể mặc quần áo dài, không nên ở trần, có thể dùng các loại hóa chất xua côn trùng thông thường nếu có hoạt động hoặc điều kiện làm việc ở ngoài trời và những nơi có nhiều dĩn hoạt động, để phòng dĩn bay thành đám quanh đầu, chích đốt máu, gây phiền hà; cần gội đầu, tắm rửa vệ sinh hằng ngày. Ngoài ra, chúng ta có thể phòng chống dĩn bằng cách dùng các hóa chất xua diệt côn trùng, hoặc dọn dẹp vệ sinh quanh nhà ở, chuồng gia súc, nơi tắm giặt… để triệt phá nơi sinh đẻ của dĩn.
Khi bị dĩn đốt, chúng ta có thể lấy dấm ăn hoặc nước muối sinh lý bôi vào vết đốt ngay khi mới bị đốt hoặc nhìn thấy nó vừa bị phồng để chống bị nổi cục ngứa. Hoặc có thể bôi các thuốc chống dị ứng như kem phenergan 2% lên chỗ sưng, uống thêm các thuốc chống dị ứng loại certirizin 10mg (ngày 1 viên) hoặc loratidine 10mg (ngày 1 viên) + prednisolone 5mg (2-4 viên /ngày) nếu cần.
Hoặc tại các vết đốt có ngứa, khó chịu có thể làm giảm đi triệu chứng bằng cách dùng các thuốc chống ngứa như Eurax, nhưng các phản ứng nghiêm trọng có thể dùng thêm các thuốc kháng histamine khác đồng thời. Cần lưu ý một số trường hợp có bội nhiễm vi khuẩn đi kèm cần được xử trí kháng sinh và chống viêm.
4. minh- dqanh103@gmail.com- Huế
Hỏi: kính gửi Ban Biên tập trang Web Viện Sốt rét-Ký sinh trùng Quy Nhơn! Hiện nay, theo một số nguồn tin cho biết rằng bệnh SXH ngoài vec tơ truyền bệnh là muỗi Aedes aegypty, còn có loại muỗi Ades albopictus cũng gây nên các hội chứng tương tự. 2 loại muỗi này đều có những đặc điểm bên ngoài khá giống nhau. Tôi không biết làm sao để phân loại được 2 loại này. Vậy, kính xin các anh chị giúp giùm tôi. Xin cảm ơn các anh chị rất nhiều!
Trả lời: Ở Việt Nam đã xác định véc tơ chính truyền bệnh sốt xuất huyết là Aedes aegypti, còn Aedes albopictus chỉ đóng vai trò phụ.
- Muỗi Aedes aegypti có kích thước trung bình, thân có màu đen bóng, có nhiều vẩy trắng bạc tập trung thành từng cụm hay từng đường trên mình muỗi, ở trên mặt lưng ngực có hai đường vẩy trắng bạc phình ra, như hai nửa vòng cung ôm hai bên lưng nên gọi là hình đàn, đầu muỗi có hai đốn vảy trắng bạc đính ở gốc râu, đỉnh pan trắng. Trên mặt lưng ở gốc các đốt II đến VIII đều có đường vẩy trắng ngang từng đốt, gốc các đốt bàn chân sau có những khoang trắng, riêng đốt bàn chân thứ V trắng hoàn toàn, cho nên muỗi còn có tên gọi là muỗi vằn.
- Muỗi Aedes albopictuslà một loại muỗi nhỏ con, có sọc trắng chạy dài từ đầu dọc theo lưng và ra tận phía sau. Chân và thân muỗi cũng có khoanh trắng. Muỗi Aedes albopictus rất hiếu chiến, thường hoạt động ban ngày mà đặc biệt là vào lúc rạng đông và lúc về chiều khi trời vừa chạng vạng tối. Nơi sinh sản của muỗi Aedes albopictus không phải là ao hồ hay sông rạch mà là những nơi chốn có tích tụ một ít nước chẳng hạn như bên trong các vỏ xe phế thải, lon, lu, chậu, khạp, máng xối, các hòn non bộ bên cạnh nhà và trong các ly, chậu có chứa nước để trồng cây phát lộc lucky bamboo. Muỗi Aedes albopictuslà véc tơ lây truyền những bệnh do virus gây ra, chẳng hạn như bệnh Chikungunya, bệnh West Nile virus và bệnh viêm não Saint Louis…
 |  |
Muỗi Aedes aegypti | Muỗi Aedes albopictus |
* Đặc điểm hình thái sử dụng để định loại muỗi Ae. aegypti và Ae. Albopictus
Khi đã xác định được là muỗi Aedes, chúng ta sử dụng những đặc điểm dưới đay để định loại và phân biệt muỗi Aedes aegypti và muỗi Aedes albopictus
- Vòi không có băng trắng.
- Đỉnh pan trắng.
+ Mesonotum có vẩy màu trắng xếp thành hình đàn .................. Ae. aegypti.
+ Mesonotum có vẩy màu trắng xếp thành sọc trắng ở giữa, đốt 5 bàn chân sau trắng..... Ae. albopictus
Như vậy, đặc điểm chính để phân biệt muỗi Aedes aegypti và muỗi Aedes albopictus là
Mến chúc bạn thành công!
5. Nguyễn minh nhựt- sunnynguyen24@yahoo.com - 126 hùng vương F.2, Q.10, TpHCM
Hỏi: cho mình hỏi, mình bị nỗi ngứa vùng bắp chân, càng ngày vùng bệnh lý càng ngày càng lan tỏa ra, thường rất ngứa và có màu đỏ xung quanh, lở loét và tiết dịch, từ lúc mới phát tới nay cũng gần 4 tháng, từ khi đọc báo thấy có hiện tượng nhiễm nấm Aspergillus flavus, giống với hiện tượng của mình, nếu vậy thì cho xin hỏi mình phải dùng loại thuốc nào và tên gì? ( tốt nhất là loại thuốc uống) để có thể điều trị bệnh này ? Xin cám ơn và rất mong được sự giúp đỡ các bạn!
Trả lời:Với câu hỏi và xin tư vấn của bạn liên quan đến triệu chứng ngứa “ngứa vùng bắp chân, càng ngày vùng bệnh lý càng ngày càng lan tỏa ra, thường rất ngứa và có màu đỏ xung quanh, lở loét và tiết dịch”, nói chung là triệu chứng không điển hình cho một bệnh lý nào cả, thời gian kéo dài đã 4 tháng nay và bạn cũng chỉ đọc báo thấy hiện tượng nhiễm nấm có triệu chứng tương tự như bạn. Chúng tôi khuyên bạn nên đi khám tại mọt cơ sở khám chuyên khoa và da liễu hoặc bệnh ký sinh trùng, để các bác sĩ có kinh nghiệm khám và hỏi bệnh cũng như cho các xét nghiệm địnhhướng, nếu thật sự nấm thì phải có xét nghiệm xác định rõ ràng chứ không thể tự nhiên cho thuốc là điều không nên, nhân đây chúng tôi xin trình bày cho bạn thấy một số đặc điểm liên quan đến bệnh nhiễm nấm Aspergillus flavus để bạn tham khảo xem như thế nào?
Nấm là vi sinh vật chân hạch, ở thể tản, tế bào không có diệp lục tố, sống dị dưỡng (hoại sinh, ký sinh, cộng sinh), vách tế bào cấu tạo chủ yếu là kitin, có hoặc không có celulose và một số thành phần khác với hàm lượng thấp. Ngành nấm học ra đời bởi nhà thực vật học người Ý Pier Antonio Micheli qua tài liệu công bố “giống cây lạ”; tuy nhiên, theo giáo sư Ekriksson Gunnan cho rằng người có công nghiên cứu sâu về nấm mốc lại là Elias Fries (1794 - 1874). Theo tài liệu công bố chưa đầy đủ thì nấm có khoảng 5.100 giống và 50.000 loài được mô tả (Elizabeth Tootyll.,1984). Song ước tính có trên 100.000 đến 250.000 loài nấm hiện diện trên trái đất. Nhiều loài có khả năng ký sinh trên nhiều vật chủ như thực vật, động vật, vật nuôi và ngay cả trên con người. Đặc biệt, chúng gây hại nhiều lên cây trồng và ngũ cốc, sản phẩm sau thu hoạch chưa hoặc đã qua chế biến, bảo quản. Một số là tác nhân gây bệnh làm hư các thiết bị thủy tinh bảo quản không tốt. Tuy nhiên, nấm cũng có mặt ưu điểm của nó như một số loài nấm trong tổng hợp ra acide hữu cơ, thuốc kháng sinh, vitamin, kích thích tố tăng trưởng thực vật đã được đưa vào nền công nghiệp và có một số nấm được dùng làm đối tượng nghiên cứu về di truyền học.
Aspergillus flavus là một loại nấm thường có mặt trong môi trường và có thể gây bệnh trên các loại ngũ cốc tích trữ trong thời gian dài. Chúng cũng có thể là tác nhân gây bệnh cho người, liên quan đến bệnh aspergillosis của phổi và đôi khi gây bệnh trên kết mạc, nấm tai, nhiễm trùng mũi hầu.Nhiều dòng nấm sinh ra một lượng lớn độc tố aflatoxin, một trong những chất gây ung thư và gây độc cấp tính. Bào tử A. flavus là các dị nguyên, đôi khi gây bệnh dưới bất kỳ hình thức nào. Nấm A. flavus thuộc giới Fungi, ngành Ascomycota, lớp Eurotiomycetes, bộ Eurotiales, họ Trichocomaceae, giống Aspergillus, loài A. flavus
Cấu tạo, hình thái hoc nấm nói chung
Một số nấm thể đơn bào có hình trứng (nấm men), phần lớn còn lại có hình sợi (filamentous fungi); sợi nấm có ngăn vách hay không có ngăn vách (đa bào hoặc đơn bào). Sợi nấm thường là một ống hình trụ dài, có kích thước lớn nhỏ khác nhau tùy loài. Đường kính của sợi nấm thường từ 3-5µm, có khi đến 10µm, thậm chí đến 1mm. Chiều dài sợi nấm có thể tới vài chục cm. Các sợi nấm phát triển chiều dài theo kiểu tăng trưởng ở ngọn. Các sợi nấm có thể phân nhánh và các nhánh có thể lại phân nhánh liên tiếp tạo thành hệ sợi nấm xù xì như bông. Trên môi trường đặc biệt và trên một số hợp chất trong tự nhiên, bào tử nấm, tế bào nấm hoặc một đoạn sợi nấm có thể phát triển thành một hệ sợi nấm có hình dạng nhất định gọi là khuẩn lạc nấm.
Tế bào chất của nấm chứa mạng nội mạc, không bào, ty thể và hạt dự trữ glycogen và lipid, đặc biệt cấu trúc ty thể ở tế bào nấm tương tự như cấu trúc ty thể ở tế bào thực vật. Ngoài ra, tế bào nấm còn có ribosome và những thể khác chưa rõ chức năng. Tế bào nấm không có diệp lục tố, một vài loài nấm có rải rác trong tế bào một loại sắc tố đặc trưng gọi là đầu tiên ly trích được và gọi là neocercosporin có màu tím đỏ ở nấm Cercosporina kikuchi (Matsueda và cs., 1978). Tế bào nấm không nhất thiết có một nhân mà thường có nhiều nhân. Nhân có hình cầu hay bầu dục với màng đôi phospholipid và protein dày 0,02mm, bên trong màng nhân chứa ARN và ADN.
Quá trình dinh dưỡng và tăng trưởng của nấm
Các loài nấm sinh trưởng không cần ánh sáng. Song, có một số loài lại cần ánh sáng trong quá trình tạo bào tử (Buller và cs., 1950). Nhiệt độ tối thiểu cần cho sự phát triển là từ 2-50C, tối ưu từ 22oC đến 27oC và nhiệt độ tối đa mà chúng có thể chịu đựng được là 35oC đến 40oC, ngoại lệ có một số ít loài có thể sống sót ở OoC và ở 60oC. Nói chung, nấm có thể phát triển tốt ở môi trường acide nhưng pH tối ưu là 5 – 6.5, một số loài phát triển tốt ở pH < 3 và một số ít phát triển ở pH > 9 (Ingold và cs. 1967). Oxy cũng cần cho sự phát triển của nấm vì chúng là nhóm hiếu khí bắt buộc và sự phát triển sẽ ngưng khi không có oxy và tất nhiên nước là yếu tố cần thiết cho sự phát triển.
Riêng loài nấm Aspergillus flavus thì điều kiện thích hợ có hơi khác. Phân bố dịch tễ học mầm bệnh nấm mốc này khác nhau tùy thuộc vào loài vật chủ. Hình ảnh dưới đây cho thấy chu kỳ của nấm trên ngô vàng. Các loài nấm sống qua mùa đông thường hoặc là hệ sợi nấm hoặc là có cấu trúc kháng như hạch nấm (sclerotia). Hạch nấm hoặc là sinh thêm các bào tử sợi nấm (hyphae) hoặc sinh ra bào tử đính (conidia) hay bào tử thể vô tính, chính điều này sẽ phát tán ra ngoài môi trường, ra đất và không khí. Các bào tử mang đến các cây ngô nhờ côn trùng hoặc nhờ gió, rồi từ đó nhiễm nấm trên ngô và gây hại. Không giống như các nấm khác, loài nấm Aspergillus flavus lại ưa sống trong điều kiện nhiệt độ khô. Nhiệt độ tố ưu để phát triển là 370C, nhưng nấm phát triển nhanh chóng ở khoảng giữa nhiệt độ là 25-420C, và sẽ phát triển ở nhiệt độ 12-480C. Nhiệt độ cao như thế sẽ góp phần vào tăng tính sinh bệnh với con người.
Nấm có thể phát triển liên tục trong 400 năm hay hơn nếu các điều kiện môi trường đều thích hợp cho sự phát triển của chúng (Alexopoulos và Minns., 1979). Nấm mốc không có diệp lục tố nên chúng cần được cung cấp dinh dưỡng từ bên ngoài (nhóm dị dưỡng), một số sống sót và phát triển nhờ khả năng ký sinh (sống ký sinh trong cơ thể động vật hay thực vật) hay hoại sinh trên xác, chất hữu cơ, cũng có nhóm nấm rễ hay địa y sống cộng sinh với nhóm thực vật nhất định. Nguồn dưỡng chất cần thiết cho nấm được xếp theo thứ tự sau: C, O, H, N P, K, Mg, S, B, Mn, Cu, Zn, Fe, Mo và Ca. Các nguyên tố này hiện diện trong các nguồn thức ăn vô cơ đơn giản như glucose, muối ammoni, ... sẽ được nấm hấp thu dễ dàng, nếu từ nguồn thức ăn hữu cơ phức tạp nấm sẽ sản sinh và tiết ra bên ngoài các loại enzyme thích hợp để cắt các đại phân tử này thành những phân tử nhỏ để dể hấp thu vào trong tế bào.
Theo Machlis và cộng sự (1966) tất cả các giai đoạn trên kể cả giai đoạn tạo cơ quan sinh dục được điều khiển bởi một số kích thích tố sinh dục. Cơ quan sinh dục của nấm có tên là túi giao tử có 2 loại: cơ quan sinh dục đực gọi là túi đực (antheridium) chứa các giao tử đực (antherozoids), còn cơ quan sinh dục cái gọi túi noãn (oogonium) chứa giao tử cái hay noãn, khi có sự kết hợp giữa giao tử đực và noãn sẽ tạo thành bào tử, bào tử di động được gọi là bào tử động (zoospores). Kiểu hai sợi nấm có giới tính đực và cái tiếp hợp nhau, sinh ra bào tử có tên là tiếp hợp tử, tiếp hợp tử là đặc trưng của nhóm nấm Myxomycetes. Bào tử sinh dục khi hình thành có dạng túi gọi là nang và túi này chứa những bào tử gọi là bào tử nang. Nang và bào tử nang là đặc trưng của nhóm Ascomycetes. Trong nhóm Basidiomycetes, 4 bào tử phát triển ở phần tận cùng của cấu trúc thể quả gọi là đãm (basidium) và bào tử được gọi là bào tử đãm (basidiospores). Nhóm nấm bất toàn (deuteromycetes) gồm những nấm cho đến nay chưa biết rõ kiểu sinh sản hữu tính của chúng.
Nấm và một số bệnh lý trên người
Aspergillus flavus cũng có thể là tác nhân gây bệnh cho thực vật và động vật, trong đó có con người và vật nuôi. Nấm có thể nhiễm trên bắp, đậu phụng, cotton và cây đậu. Nấm thường thấy dưới dạng các mảng nấm và có thể nhìn thấy được (xem hình bên). Các bệnh nhân nhiễm nấm A. flavus thường là suy giảm miễn dịch.
A. flavus là tác nhân đứng hàng thứ 2 hay gặp nhất của nhóm nấm gây bệnhaspergillosis, tác nhân đầu tiên là nấm Aspergillus fumigatus (chúng tôi có đề cập trong bài trước, đăng trên cùng trang website: http://www.impe-qn.org.vn). A. flavus có thể xâm nhập vào các động mạch phổ hoặc não và gây tình trạng nhồi máu. Ảnh hưởg lên giảm bạch cầu hạt thường liên quan đến nhiễm loài nấm này. Aspergillus flavus cũng sinh ra độc tố (aflatoxin) là một trong những tác nhân gây ung thư gan (HCC_hepatocellular carcinoma). Sự phá hủy của nấm A. flavus đặc biệt thường hay sinh aflatoxin, có thể gây viêm gan cấp, ung thư gan và gây suy giảm miễn dịch. Đồng thời qua một số nghiên cứu tại các quốc gia cho thấy tỷ lệ ung thư gan có viêm gan siêu vi đi kèm thì thường tỷ lệ nhiễm nấm cùng lúc cũng rất cao. Trong tự nhiên, A. flavus có khả năng phát triển trên nhiều nguồn dinh dưỡng khác nhau. Đặc biệt chúng sống trên các thực vật hoại sinh như mô thực vật và động vật bị chết trong đất. Vì lý do này nên nó có thể tái sinh dinh dưỡng liên tục.
Chẩn đoán và biểu hiện trên nuôi cấy
A. flavus phát triển như một nấm mốc màu xanh vàng trên môi trường nuôi cấy. Giốn như các loài nấm Aspergillus khác, chúng sinh ra các bào tử đính. Các tế bào bào tử đính trên các túi sinh ra dạng nấm đính. Nhiều dòng nấm của A. flavus cho màu xanh huỳnh quang dưới chiếu sáng bằng tia cực tím, đièu này liên quan đến lượng aflatoxin sinh ra.
Điều trị bệnh nấm do Aspergillus flavus
Về chăm sóc cho bệnh nhân bệnh nấm cả về bệnh nấm ở da hoặc lan tỏa, liều cao tĩnh mạch thuốc Amphotericin B là một thuốc cổ điển chống nấm cho loại trừ nấm rất tốt. Tuy nhiên, voriconazole cũng cho thấy hiệu quả và được chấp như một thuốc điều trị lựa chọn đầu tiên (first-line agent) và ngày càng sử dụng nhiều hơn. Việc lựa các thuốc chống nấm khác như Itraconazole và Caspofungin. Đối với Aspergillus gây viêm móng, điều trị thuốc Itraconazole đường uống vì thuốc thoa có hiệu quả rất giới hạn trong việc loại trừ nấm khỏi các móng.
Điều trị ngoại khoa được báo cáo trong một số trường hợp về hiệu quả của việc phẩu tích trong điều trị bệnh nấm Aspergillus da niêm tiên phát. Một số bệnh nhân cũng điều trị đồng thời với thuốc nấm đường toàn thân. Điều cần chú ý là chăm sóc vết thương do nấm, chẩn đoán cẩn thận, chú trọng đến một số bệnh nhiễm trùng khác có thể đồng thời.
Thuốc thường dùng là Amphotericin B liều cao đường tĩnh mạch, về kinh điển thì thuốc này có thể tiêu diệt nấm gần 100%. Tuy nhiên, voriconazole cũng đã chứng minh có hiệu quả và ngày càng được ưa chuộng dùng nhiều hơn đối với các thể nấm Aspergillosis xâm nhập, thuốc hiện có sẵn dạng đường uống và ngoài đường uống. Một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên, mở, tiến hành tại đa trung tâm, so sánh hiệu lực thuốc Voriconazole với Amphotericin B cho thấy thuốc Voriconazole có tỷ lệ đáp ứng tốt hơn, ít tác dụng phụ hơn.
Itraconazole, Posaconazole, Caspofungin, Terbinafine và Micafungin cũng được báo cáo là những thuốc có hiệu quả trong một số trường hợp. Thời gian điều trị dài ngắn khác nhau theo các báo cáo y văn, nhưng hầu hết đều có hiệu quả khi điều trị kéo dài. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra Posaconazole có thể thay thế điều trị trong trường hợp nhiễm Aspergillosis thể thâm nhập ở các bệnh nhân kháng thuốc trước đó hoặc không dung nạp các thuốc kháng nấm khác. Liệu pháp phối hợp nhiều thuốc chống nấm cũng đã được sử dụng trên nhiều bệnh nhân liên quan đến kháng thuốc.
Amphotericin B (Amphocin, Fungizone):
Là một loại kháng sinh polyene sinh ra bởi một dòng Streptomyces nodosus; có chứng năng kìm nấm (fungistatic) hoặc diệt nấm (fungicidal). Gắn kết với gốc sterols (chẳng hạn, ergosterol) trong màng tế bào nấm, gây cho tình trạng các thành phần nội bào phá hủy dẫn đến các “lỗ thủng” rồi gây chết tế bào nấm.
§Liều dùng: người lớn là từ 3-5 mg/kg/ngày, dùng đường tĩnh mạch của liposomal Amphotericin B, tiêm chậm 120 phút, tăng dung nạp thuốc tốt. Trẻ em liều dùng như người lớn.
§Tương tác thuốc: các tác nhân chống tân sinh có thể làm tăng độc tính trên thận tiềm tàng, co thắt phế quản và hạ huyết áp; corticosteroids, digitalis và thiazide có thể gây hạ kali máu, nguy cơ độc cho thận tăng khi kết hợp cyclosporine, aminoglycosides, tacrolimus, cisplatin, acetazolamide; trên in vitro và mô hình thực nghiệm động vật coh thấy phát triển kháng nấm của amphotericin B đồng thời khi cho kèm imidazoles; Khi chỉ định Amphotericin B, zidovudine dẫn đến tăng nguy cơ độc tính cho thận và hệ máu, mặc dù chưa rõ cơ chế;
§Chống chỉ định: những người đã bị quá mẫn với loại thuốc này.
§Thận trọng: phụ nữ mang thai
Nguy cơ “B - Fetal risk” (theo quy định và xếp loại của FDA) được xác định trên các nghiên cứu ở người nhưng chưa có số liệu cụ thể trên nghiên cứu động vật;
Theo dõi chức năng thận, điẹn giải đồ (Mg, Kali) chức năng gan, công thức máu toàn phần và hàm lượng Hb; điều trị bắt đầu lại liều thấp nhất (0.25 mg/kg) khi điều trị bị gián đoạn trên 7 ngày; thiếu ô xy máu, khó thở và thâm nhiễm mô kẻ có thể xảy ra trong các bệnh nhân giảm bạch cầu hạt nhận điều trị truyền máu; sốt và run lạnh là các triệu chứng hiếm gặp hơn sau điều trị đầu tiên, hiếm khi có phản ứng cấp như co thắt phế quản, hạ huyết áp, loạn nhịp và sốc.
Itraconazole (Sporanox)
Về hoạt tính chống nấm của Itraconazole tương tự thuốc thuộc nhóm triazole (triazole antifungal agent), chúng tác dụng chậm lên sự phát triển các tế bào nấm bằng cách ức chế quá trình tổng hợp ergosterol lệ thuộc CYP_450 (CYP-450–dependent synthesis of ergosterol)-đây là một phần sống còn của màng tế bào nấm. khi thuóc tác động lên khâu này thì tế bào nấm dần dần bị phá hủy và nấm chết.
§Liều dùng: người lớn dùng liều 200 mg, đường uống, chia 4 lần mỗi ngày; không vượt quá liều 400mg/ngày; cứ mỗi lần tăng liều lên 100mg nếu không cải thiện bệnh (khi cho liều lớn hơn > >200 mg/ngày thì nên chia thành nhiều liều trong ngày), 200mg tiêm tĩnh mạch chia thành 2 lần.
Trẻ em hiện liều đề nghị là 100 mg/ngày trong trường hợp nhiễm nấm toàn thân. (thực tế liều dùng cho trẻ em chưa thống nhất)
§Tương tác thuốc: các thuốc kháng acide có thể làm giảm hấp thu thuốc; phù có thể xảy ra khi kê đồng thời thuộc chặn kên calcium (chẳng hạn thuốc amlodipine, nifedipine); hạ đường huyết có thể xảy ra khi cho đồng thời sulfonylureas; có thể tăng nồng độ tacrolimus và cyclosporine trong huyết tương khi cho sử dụng liều cao; hiện tượng tiêu cơ vân có thể xuất hiện khi cho thuốc cùng với các thuốc ức chế enzyme HMG-CoA reductase (lovastatin, simvastatin); khi cho cùng cisapride có thể gây bất thường nhịp tim và thậm chí tử vong; tăng nồng độ digoxin trong máu; cho đồng thời có thể tăng nồng độ midazolam hoặc triazolam trong huyết tương; phenytoin và rifampin có thể giảm (chuyển hóa phenytoin có thể thay đổi);
§Chống chỉ định: trong trường hợp phụ nữ đang cho con bú hoặc có tiền sử quá mẫn với thuốc hoặc thành phần của thuốc;
§Thận trọng:
Phụ nữ mang thai đang mắc bệnh nhiễm nấm;
Nguy cơ C - Fetal risk (theo tiêu chuẩn của FDA) cho thấy trong một số nghiên cứu trên động vật thực nghiệm có vấn đề nhưng trên người thì chưa thấy hoặc chưa được theo dõi trên người; có thể cân nhắc sử dụng nếu thấy lợi ích lớn hơn nguy cơ cho thai nhi;
Thận trọng trên những người suy gan.
Voriconazole (VFEND)
Sử dụng đầu tiên cho các ca bị nhiễm nấm Aspergillosis thể xâm nhập và and điều trị cho những ca nhiễm các laòi Fusarium hoặc Scedosporium apiospermum. Đây cũng là một trong những thuốc thuộc nhóm kháng nấm triazole, ức chế quá trình khử methyl của CYP450–mediated 14 alpha-lanosterol của nấm, mà quá trình này lại rất cần thiết để sinh tổng hợp nênergosterol cho nấm.
§Liều dùng: người lớn dùng liều tải 6 mg/kg tiêm tĩnh mạch, mỗi 12 giờ hoặc truyền chậm 2 liều trong 2 giờ. Sau đó dùng liều duy trì 4 mg/kg truyền tĩnh mạch chậm > 2 giờ; khi có thể dung nạp bằng đường uống, có thể chuyển với liều 200mg đường uống mỗi 12 giờ (cho uống trước hoặc sau bữa ăn 1 giờ). Khi đáp ứng không đủ, có thể tăng liều lên 300mg đường uống mỗi 12 giờ; <40 kg cho liều duy trì 100mg đường uống mỗi 12 giờ (có thể tăng liều lên 150mg mỗi 12 giờ).
Trẻ em < 12 tuổi hiện không có liều thống nhất, nếu > 12 tuổi dùng liều như người lớn;
§Tương tác thuốc: CYP450 2C19 (sự kết hợp/ ái lực cao nhất), CYP2C9 CYP3A4 (ái lực thấp); CYP450 inducers (chẳng hạn rifampin) cho thấy làm giảm chậm chậm nồng độ đỉnh trong huyết tương đến 93%; có thể tăng nòng độ các thuốc được chuyển hóa trong huyết thanh bởi hệ CYP450 2C19 hoặc CYP2C9, của một số bị chống chỉ định (ví dụ sirolimus, pimozide, quinidine, cisapride, ergot alkaloids), một số thuốc khác có thể càn phải giám sát thường xuyên (cyclosporine, tacrolimus, warfarin, các chất ức chế HMG-CoA, benzodiazepines, thuộc chẹn kên calcium).
§Chống chỉ định: nếu quá mẫn với bất cứ thành phần nào của thuốc; không được chỉ định thuốc bằng đường tĩnh mạch nếu CrCl <50 mL/phút (giảm tiết); không chỉ định đồng thời với rifampin, rifabutin, carbamazepine, barbiturates, sirolimus, pimozide, quinidine, cisapride, ergot alkaloids
§Thận trọng:
Phụ nữ mang thai được xem là nhóm nguy cơ “D - Fetal risk” (theo tiêu chuẩn FDA) ở người; chỉ cho phép sử dụng khi lợi ích lớn hơn nguy cơ cho thai nhi;
Giảm liều duy trì nếu rối loạn chức năng gan; một số tác dụng ngoại ý thường gặp như rối loạn thị lực, nhìn mờ, sốt, nổi ban đỏ (kể cả hội chứng Stevens-Johnson và độc dạng phototoxicity), buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy, nhức đầu, phù ngoại vi, đau bụng, suy hô hấp, hiếm gặp có độc cho tế bào gan nghiêm trọng.
Caspofungin (Cancidas)
Thuốc được dùng trong các trường hợp nhiễm nấm Aspergillosis thể xâm nhập khó điều trị với các thuốc khác. Đây là thuốc đầu tiên của nhóm kháng nấm thế hệ mới (nhóm ức chế tổng hợp glucan). Thuốc ức chế tổng hợp beta-(1,3)-D-glucan-một thành phần quan trọng ở vách tế bào nấm.
§Liều dùng: người lớn liều 70 mg/ ngày đường tĩnh mạch chậm (>1 giờ) vào ngày thứ nhất; tiếp đó liều50 mg tiêm tĩnh mạch 4 lần mỗi ngày; Với trẻ em đến nay chưa thống nhất liều dùng.
§Tương tác thuốc: cho đồng thời với cyclosporine có thể tăng nguy cơ gây độc cho gan; carbamazepine,nelfinavir, efavirenz, hoặc dexamethasone có thể giảm nồng độ thuốc; có thể làm giảm nồng độ thuốc lacrolimus; rifampin, caspofungin đến 30% (với liều chỉ 70 mg/ngày)
§Chống chỉ định: nếu có quá mẫn với thuốc
§Thận trọng:
Phụ nữ mang thai xếp vào nhóm nguy cơ “C - Fetal risk” (theo tiêu chuẩn của FDA) nghĩa là cho thấy trên nghiên cứu động vật nhưng chưa rõ trên người như thế nào hoặc chưa có thông báo trên người; có thể dùng nếu lợi ích lớn hơn nguy cơ cho thai nhi.
Thận trọng với người suy chức năng gan từ mức độ vừa (giảm liều chỉ 35 mg/ngày); có thể cực kỳ nguy hiểm nếu có suy chức năng thận và bệnh lý có ức chế tủy xương.
Micafungin (Mycamine)
Thuốc này là một thành viên của nhóm thuốc chống nấm mới là echinocandins, ức chế quá trình tổng hợp vách tế bào nấm. Ức chế sự tổng hợp chất 1,3-beta-D-glucan-một thành phần quan trọng của vách tế bào nấm không hiện diện trên các tế bào động vật có vú.
§Liều có thể thay đổi tùy thuộc tác giả. Với trẻ em hiện chưa thống nhất về liều dùng;
§Tương tác thuốc: tăng nồng độ dưới đường cong của thuốc sirolimus và nifedipine AUCkhoảng 20%
§Chống chỉ định: nếu bệnh nhân quá mẫn với thuốc
§Thận trọng:
Trên phụ nữ mang thai, thuốc nằm trong nhóm nguy cơ “C- Fetal risk” (theo tiêu chuẩn của FDA) rằng đã có biểu hiện các bất lợi trên nghiên cứu ở động vật nhưng chưa thấy biểu hiện trên người hoặc chưa nghiên cứu trên người; có thể sử dụng nếu thấy lợi ích lớn hơn nguy cơ cho thai nhi;
Một số tác dụng ngoại ý có thể thuowngf gặp là nhức đầu, buồn nôn, nôn mửa và đau bụng; một số tác dụng ngoại ý khác như nổi mẩn đỏ, cơ cuồng sản, viêm tĩnh mạch, sốc, giảm bạch cầu và tăng bilirubin máu; hiếm hơn có thể tăng men gan, BUN và creatine máu (đã có báo cáo); tán huyết nội mạch và xuất hiện hemoglobine niệu thoáng qua; không được trộn hoặc truyền chung đường tĩnh mạch với các thuốc khác bởi vì thể kết tủa với các thuốc khác nhau (có thể cho thuốc vào dung dịch NaCl 0.9%) để bảo vệ sau pha loãng.
Posaconazole (Noxafil)
Đây cũng là một thuốc chống nấm nhóm Triazole. Ngăn quá trình tổng hợp ergosterol bằng cách ức chế enzyme lanosterol 14-alpha-demethylase và sự tích tụ chất tiền sterol. Kết quả của cơ chế tác động này dẫn đến sự phá vỡ màng tế bào. Thuốc có sẵn dưới dạng nhũ dịch đường uống (200 mg/5 mL). Chỉ định dự phòng trong các trường hợp nhiễm nấm Aspergillus thể xâm nhậptrên những bệnh nhân có nguy cơ cao do suy giảm miễn dịch nặng.
§Liều dùng: người lớn 200 mg (5 mL) đường uống, ngày 3 lần với thức ăn hoặc dung dịch dinh dưỡng để tăng hấp thu. Riêng với trẻ em <13 năm hiện chưa thống nhất liều; nếu trẻ em >13 tuổi thì chỉ định liều dùng như người lớn.
§Tương tác thuốc: thuốc được chuyển hóa thông qua quá trình UDP glucuronida hóa; cơ chất ra P-gp; hệ ức chế CYP3A4 UDP-G inducers (chẳng hạn thuốc rifabutin, phenytoin) và những thuốc làm tăng pH dạ dày (cimetidine) giảm nồng độ trong huyết thanh (tránh dùng chungtrừ phi lợi ích lớn hơn nguy cơ); Các thuốc ức chế CYP3A4 và có thể tăng nồng độ cyclosporine, tacrolimus, sirolimus, rifabutin, midazolam, phenytoin, thuốc chặn kênh calcium (chẳng hạn nifedipine, bepridil), các chất ức chế HMG-CoA reductase (chẳng hạn lovastatin, pravastatin), ergot alkaloids, terfenadine, astemizole, cisapride, pimozide, halofantrine, quinidine, hoặc vinca alkaloids (như vincristine, vinblastine)
§Chống chỉ định: đối với những trường hợp mẫn cảm với thuốc; dùng đồng thời với ergot alkaloids; hay đồng thời với các chất CYP3A4 có thể dẫn đến ngộ độc nghiêm trọng (chẳng hạn terfenadine,astemizole, cisapride, pimozide, halofantrine, quinidine)
Thận trọng:
Phụ nữ mang thai có chú trọng với “C - Fetal risk” (theo tiêu chuẩn của FDA), rằng đã có biểu hiện các bất lợi trên nghiên cứu ở động vật nhưng chưa thấy biểu hiện trên người hoặc chưa nghiên cứu trên người; có thể sử dụng nếu thấy lợi ích lớn hơn nguy cơ cho thai nhi;
Một số tác dụng phụ thường gặp có thể là buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy, nổi mản đot, hạ kali máu, giảm bạch cầu trong máu, tăng men gan; giám sát bệnh nhân chặt chẽ khi tiêu chảy nặng hoặc nôn nặng vì nhiễm trùng nấm xâm nhập toàn cơ thể; hiếm khi gặp tác dụng phụ nghiêm trọng như rối loạn nhịp, thay đổi kéo dài khoảng QTc, tăng bilirubine máu, suy giảm chức năng gan, nguy cơ cho tim mạch (tiền sử loạn nhịp, hạ kali máu, hạ magne máu); nên tăng ăn uống và cải thiện hấp thu bằng chế độ ăn phù hợp, nếu đang cho con bú nên ngừng.
6. Nguyen thi mai trang- thaotrang63@yahoo.com, số 19 nguyễn trãi, buôn hồ, daklak
Hỏi: cho em hỏi nhiệm vụ của xét nghiệm viên tuyến xã là gì? nhiệm vụ của điểm kính tuyến xã là gì ạ?
Trả lời: Liên quan đến câu hỏi của bạn, chúng tôi đề nghị bạn có thể tìm tài liệu quy đinh về chứcnăng nhiệm vụ của xét nghiệm viên tuyến xã cũng như về điểm kính hiển vi từ trong trạm y tế xã hoặc Trung tâm y tế / TTYT dự phòng huyện nơi bạn đang công tác. Ngoài các tài liệu chính thống trên, chúng tôi được biết thực tế một số xét nghiệm viên (tùy thuộc vào trình độ chuyên môn) có thể được phân công trách nhiệm khác ngoài phụ trách điểm kính xét nghiệm, chẳng hạn phụ trách thêm chương trình y tế quốc gia khác vì nhân lực cán bộ của tuyến dưới còn thiếu và yếu rất nhiều.
7. ngoc- lanhdien_cunghanbang@yahoo.com- qui nhon
Hỏi: ngày 07/6/2010 tôi xét nghiệm giun đũa chó (toxocara canis), kết quả: 1/1600 dương tính. Ngày 19/6/2010 bác sĩ kê đơn như sau:
-lormeg 10mg: 10v, uống tối 1 viên
-fmarin 5mg: 20v, uống sáng 1 viên tối 1 viên
-sanfocef 500mg: 10v, uống sáng 1 viên tối 1 viên
-albendazle 400mg: 42v, uống sáng 1 viên tối 1 viên.
Tôi uống hết toa vào ngày 12/7/2010.
2. ngày 18/9/2010 tôi đi xét nghiệm giun đũa chó
Kết quả: 1/1600, dương tính
Bác sĩ kê đơn (tôi đọc không rõ lắm vì chữ khó đọc quá), uống 1 tháng
- alfeer: 28v, uống 2 lần
- conel: 20v, uống 2 lần
- bshepa: 80v.
Tôi xin hỏi như sau: tôi uống thuốc mới 2 tháng thì xét nghiệm lại đã đủ chưa? Kết quả dương tính là kết quả “giả”? Tôi định có thai trong tháng 10/2010 thì tôi nên uống thuốc theo toa bác sĩ vào ngày 18/9 hay để sinh con rồi hãy uống? nếu như tôi uống bây giờ thì sau bao lâu là tôi có thai được? Chồng tôi cũng bị giun chó nhưng uống Ivermectin, 3 viên, sau 4 tháng xét nghiệm thì không còn nhiễm nữa. Vậy tôi có uống Ivermectin được không? Vì nó có 3 viên chứ không nhiều như thuốc khác?
Mong các bạn phúc đáp sớm, Tôi xin cảm ơn!
Trả lời: Cảm ơn bạn đã cho chúng tôi một sơ đồ phác thảo về lịch trình chẩn đoán và điều trị của bạn liên quan đến giun đũa chó. Song chúng tôi muốn biết bạn đã xét nghiệm và điều trị tại đâu về bệnh giun đũa chó tại đâu, bên cạnh xét nghiệm dương tính bạn còn có các triệu chứng lâm sàng nào khác không (ví dụ như nhức đầu, ngứa, mày đay, chóng mặt, thiếu máu, rối loạn tiêu hóa, đại tiện phân bất thường, đau bụng,…) không? Nếu chỉ dựa vào một xét nghiệm dương tính 1/1600 mà không hề có các triệu chứng lâm sàng nào khác thì chưa chắn bạn đã bị mắc bệnh giun đũa chó. Cũng xin nói thêm cho bạn biết hiện nay xét nghiệm các loai giun sán nói chung và giun đũa chó nói riêng cũng nên thận trọng vì tỷ lệ dương tính giả rất cao, có khi lên đến 60-70%. Do đó nếu không thận trọng, dễ dẫn đến việc dùng thuốc không cần thiết mà còn độc đến gan thận cho mình.
Mặt khác với các xét nghiệm bạn nêu chỉ có duy nhất là dương tính (+) Toxocara canis còn các xét nghiệm về công thức máu, đáng lưu ý là chỉ số bạch cầu ái toan (eosine) như thế nào, men gan ra sao,…chúng tôi vẫn không thấy bạn đề cập ở đây.
Bất cứ thuốc nào chăng nữa cũng đều có độc tính nhất định, ngay cả vitamine cũng là con dao 2 lưỡi kia mà, huống hồ chi thuốc điều trị giun sán loại albendazole có độc tính cao với liệu trình dài ngày và liều cao như bạn đã dùng. Do vậy, trước khi quyết định điều trị và kế hoạch có mang thai hay không, bạn nên cân nhắc kỹ. Thuốc Ivermectine là một loai thuốc đặc hiệu điều trị giun đũa chó, song không phải bất cứ ca bệnh nào điều trị cũng khỏi, có trường hợp phải dùng đến nhiều liều Ivermectine hoặc phối hợp Ivermectine với Albendazole nhiều đợt mới khỏi bệnh.
Lần nữa chúng tôi xin lỗi vì đã phúc đáp cho bạn hơi chậm (so với kế hoạch mong muốn có thai của bạn), nếu có vấn đề gì cần tư vấn rõ hơn vui lòng có thể liên hệ với thạc sĩ Huỳnh Hồng Quang qua số điện thoại di động 0905.103.496 để biết thêm thông tin rõ hơn.
Thân chúc bạn khỏe!
8. Nguyen Nhu Y- Advanceup865ny@yahoo.com- Phu Nhuan
Hỏi: Thân gửi IPME-QN và nhất là Ths.Bs.Huỳnh Hồng Quang. Quả thật, sau khi đọc xong lời giới thiệu của Viện trưởng vể BS Quang đã làm tôi choáng ngợp và tôi mong rằng BS Quang sẽ sớm hoàn thành công việc khu vực Tây Nguyên để nhanh chóng sang Pháp tiếp tục nghiên cứu.
Tôi là bác sỹ thú y và đã đọc rất nhiều chuyên mục trên IMPEQN để tìm hiểu vể ký sinh trùng. Gần đây, tại khu vục Tp. HCM có xuất hiện một số ca bệnh viêm da mãn tính trên chó, khách hàng đã gọi đến tôi và sau đó tôi đã phải gọi đến bạn tôi ở nước ngoài để ngờ giúp đỡ, bạn tôi gợi ý về bệnh Dracunculiasis. Nhưng tôi cần nhiều thông tin hơn về loại KST này trước khi đưa ra kết luận chính thức cho khách hàng, vì nếu kết luận thú cưng của họ mắc bệnh Dracunculiasis thì hẳn nhiên là một quyết định vô cùng quan trọng, có thể làm đảo lộn cuộc sống của họ. Vậy tôi mong thông qua forum của IPMEQN và BS Quang có thể cung cấp thêm các nguồn thông tin khác về bệnh này đề chẩn đoán và điều trị chính xác hơn. Xin chân thành cảm ơn. Như Ý
Trả lời: Trước hết, chúng tôi xin chân thành cảm ơn bạn rất nhiều khi đã quan tâm đến các chuyên mục khoa học của Viện sốt rét KST-CT Quy Nhơn trong thời gian qua. Liên quan đến câu hỏi của bạn, chúng tôi xin truyền tải tất cả vấn đề có liên quan đến giun Dracunculus medinensis.
Dracunculus medinensis là một trong những loại giun tròn gây bệnh nghiêm trọng, có tên gọi là Dracunculiasis. Bệnh Dracunculiasis gây ra do giun cái trưởng thành kích thước lớn Dracunculus medinensis, và đây cũng là loài giun tròn có kích thước dài nhất ký sinh trên người. Giun cái trưởng thành lớn hơn con giun đực và chiều dài nhất là 800 mm, trong khi con đực chỉ có 40 mm. Các con giun trưởng thành thường di chuyển bên dưới mô da bên dưới của mắc cá chân, tạo nên các vết nổi bóng nước và loét, gây đau, chúng cũng có có thể đi đến các cơ quan khác trên cơ thể như đầu, thân mình, chi trên, mông và bộ phận sinh dục. Dmedinensis thường được biết với tên gọi là “
Người bị nhiễm loại giun này do uống các nguồn nước chưa được lọc có chứa các loài giáp xác bé xíu (copepods-crustaceans) nhiễm ấu trùng D. medinensis. Sau khi tiêu hóa các giáp xác này, giáp xác sẽ chết và giải phóng các ấu trùng, tiếp đến ấu trùng đi xuyên qua dạ dày của vật chủ qua thành ruột vào trong các khoang ổ bụng và ra phía sau của khoang phúc mạc. Sau khi trưởng thành giun đực chết và giun cái, di chuyển đến mô dưới da và hướng về phía bề mặt da. Khoảng 1 năm sau kể từ khi nhiễm, giun cái hình thành nên các bọng nước trên da, rồi trên chân vở ra. Bệnh nhân cảm thấy khó chịu tại chỗ và muốn ngâm chân mình trong nước, nhưng khi ngâm chân vào nước giun cái bắt đầu trồi ra và giải phóng ấu trùng, rồi ấu trùng được ăn vào bởi các loài giáp xác. Sau 2 tuần, ấu trùng đi vào giai đoạn cuối và cũng hoàn thành chu kỳ trở lại như trên.
Những người đang mắc giun như thế không nên tắm hoặc nhạy vào trong các nguồn nước sinh hoạt và nước uống vì giun sẽ ly giải ra hàng trăm ngàn trứng hoặc ấu trùng vào trong nước nhiễm. Các động vật giáp xác bé xíu đó ăn các ấu trùng và người thì uống các nước không được lọc từ các ao, hồ bị ô nhiễm và cứ thế chúng tiếp tục hoàn thành chu kỳ KST. Dmedinensis, theo Trung tâm Carter dẫn đầu vềchiến dịch loại trừ giun rồng vào năm 1986. khi đó ước tính có khoảng 3.5 triệu ca bệnh tại 20 quốc gia châu Phi và châu Á. Năm 2008, có khoảng ít hơn 5.000 ca tại 6 quốc gia châu Phi (Sudan, Ghana, Mali, Ethiopia, Nigeria, Niger). Nigeria và Niger có chiến dịch dừng lan truyền và tổng số ca cuối cùng năm 2009 ít hơn 3.500 xã sẽ được xác định cụ thể vào năm 2010.
Khi đã bị nhiễm, người uống các nguồn nướctù đọng (như trong ao, hồ) chứa các giáp xác bé xíu đó và đã nhiễm các ấu trùng giun, do vậy 3 điều kiện phải hội đủ trước khi chúng hoàn thành chukỳ sinh bệnh của giun là: [1] da của những cá nhân bị nhiễm phải tiếp xúc với nước; [2] nước phải có các con giáp xác; [3] nguồn nước này phải được sử dụng để uống. Quá trình nhiễm này cũng có thể mắc phải do ăn các vật chủ cá, nhưng rất hiếm. Ký sinh trùng này được tìm thấy phần lớn ở Ấn Độ và châu Phi, Hiện nay chưa phát hiện vật chủ chứa (reservoir hosts).
Mặc dù bệnh giun rồng cũng gây các bệnh dịch ở Ghana, Ethiopia, Mali, Niger, Sudan, India, Pakistan, Senegal, Yemen và nhiều vùng trên thế giới do tỷ lệ nhiễm mới cao ở tây Phi, và tên gọi tại châu Phi hay dùng nhất là Guinea worm. Vào thế kỷ 18, một nhà nghiên cứu vạn vật học người Thụy Điển là Carlus Linnaeus, xác định ra D. medinensis trong các nhà nuôn hay thương gia đi buôn bán ở vịnh Guinea (vùng biển Tây Phi), do vậy, chúng có tên là giun Guinea.
Nigeria, các cánh đồng ruộng là một hạt đơn lẻ mất khoảng 20 triệu USD chỉ một năm sau khi vụ dịch giun xảy ra tại quốc gia này.
Về sinh bệnh học và triệu chứng
Các con giun cái gây ra các phản ứng dị ứng trong quá trình hình thành các bọng nước khichúng di chuyển trong da, gây nên các vết đau nhức dạng bỏng rát. Các phản ứng dị ứng như thế sinh ra các ban đỏ, buồn nôn, tiêu chảy, chóng mặt và phù tại chỗ vết thương. Các bọng nước này vở ra, các phản ứng này giảm đi nhưng hình thành vết loét da và con giun bắt đầu trồi ra. Chỉ khi giun được lấy đi thì vết thương mới lành được. Các trường hợp giun chết trong khoeps có thể dẫn đến viêm khớp và liệt tủy sống. feet. Các con giun này gây ra các triệu chứng đau đớn, khó chịu và tạo các bọng nước trên da. Việc chẩn đoán bệnh giun rồng dracunculiasis là quan sát trực tiếp giun trồi ra khỏi vết thương ở vùng chân và xét nghiệm dưới kính hiển vi thấy các ấu trùng ly giải.
Các kỹ thuật kinh điển liên quan đến loại bỏ giun đã thành công nhiều thế kỷ qua. Một số biện pháp thay thế được tiến hành chỉ tập trung trên bệnh nhân là lấy giun ra khỏi vết thương . Thuốc sử dụng để điều trị thì đã có nhưng hiệu quả của chúng vẫn còn là dấu chấm hỏi.
nổi lên như giun cuộn lại thì bắt đầu mới biết. Một khi xảy ra, nhân viên y tế địa phương hoặc bệnh nhân lấy mtj miếng gạc phủ lên và dùng kẹp phẩu tích gắp nhẹ dần dần từ từ giun này ra khỏi cơ thể. Diễn tiến bệnh và cơn đau có thể kéo dài đến 1 tháng.
Làm thế nào phòng bệnh
Bệnh giun này lây truyền qua con đường uống nước bị ô nhiễm phải các giáp xác có chứa ấu trùng, do đó chúng ta không nên uống các nước chưa lọc mà phải dùng đến các lưới lọc nylon để loại bỏ các giáp xác nhỏ này, hoặc chúng ta cũng có thể đun sôi nước trước khi uống. Các nỗ lực phòng chống hiện nay đã thành công nhờ vào các biện phá trên và giết các lài giáp xác bằng các thuốc diệt. Nguồn nước được xử lý loại khỏi các giáp bằng các thuốc như Abate.
Một kinh nghiệm từ cuộc chiến với dịch bệnh giun rồng ở Ghana là đất nước Ghana đã hạ thấp con số nhiễm xuống còn zero vào tháng 11.2009 này vàthực tế năm 2008, 501 ca mới được ghi nhận so với số ca năm 2007 là 3.358 thì giảm đi 85%. Một số biện pháp can thiệp qua 2 năm tại đây bao gồm giám sát các con đập và các nguồn nước khác trong cộng đồng lưu hành bệnh để đảm bảo con người không còn nhiễm phải các nguồn nước ô nhiễm như thế nữa. Ngoài ra, các biện pháp lọc và xử lý nước khác cung cấp cho dân chúng nước rất sạch từ các giếng sâu hoặc bơm. Tất cả điều này do nổ lực của National Guinea Worm Eradication Program, tài trợ bởi WHO, UNICEF, JICAvà EU.
Phòng bệnh: giáo duc sức khỏe và các biện pháp kỹ thuật thấp để thúc đẩy tiến trình thay đổi hành vi trong phòng bệnh giun rồng. Biện pháp hiệu quả nhất để ngăn ngừa chúng chính là dùng các bình lọc nước để loại bỏ các loài giáp xác nhỏ ra khỏi nước uống. Trung tâm Carter Center cung cấp cho các gia đình các bộ lưới lọc bằng vải lỗ siêu nhỏ. Một số người, đặc biệt nhóm người du mục nhận lấy các ống lọc nước nhỏ như một thiết bị chuyên dụng cá nhân để lấy nước uống an toàn cho cá nhân. Các thiết bị này tuy đơn giản nhưng giúp cho mọi người dân ở đây dùng nước an toàn. Các biện pháp can thiệp quan trọng khác bao gồm xử lý các hồ chứa nước bằng các hóa chất diệt ấu trùng như ABATE©, cung cấp bởi hãng hóa chất nổi tiếng BASF và xây dựng hoặc tạo các giếng khoang trong lòng đất hoặc đào giếng sâu, khi đó lấy nước mới an toàn được.
Con người là vật chủ duy nhất của ký sinh trùng giun rồng, do vậy lan rộng bệnh có thể phòng chống bằng cách xác định tất cả các ca bệnh và truyền thông giáo dục sức khỏe cho họ đẻ tránh tái nhiễm. Một khi loại trừ các ca bệnh ở người thì bệnh cũng vì thế bị loại trừ. Ngày nay, các ca giun rồng đã giảm xuống đáng kể lên đến 99% kể từ năm 1986.
Và điều đó có nghĩa đây là bệnh ký sinh trùng được loại trừ đầu tiên và bệnh ký sinh tùng đầu tiên loại trừ mà không cần đến vaccine hay thuốc đặc hiệu nào cả. Chỉ có những chiến dịch hành động tích cực và chủ động như thế mới có thể chống lại bệnh tật như là chống lại với bại liệt.. Về phía Carter Center's International Task Force for Disease Eradication cũng đã xác định chỉ có 7 bệnh là có tiềm năng loại trừ được.
Một số tài liệu có thể giúp bạn tham khảo thêm
-Knopp S, Amegbo IK, Hamm DM, Schulz-Key H, Banla M, Soboslay PT (2008). "Antibody and cytokine responses in Dracunculus medinensis patients at distinct states of infection". Trans. R. Soc. Trop. Med. Hyg. 102 (3): 277–83.
-Bimi L. 2007. Potential vector species of Guinea worm in Northern Ghana. Vector Borne Zoonotic Dis 7(3): 324-9.
-Saleem T. B., and I. Ahmed. 2006. "Serpent" in the breast. J Ayub Med Coll Abbottabad 18(4): 67-8.
-Schmidt G. D., and L S. Roberts. 2009. Foundations of Parasitology, 8th ed. The McGraw-Hill Companies, Inc., New York, 480-84 p.
-Centers for Disease Control and Prevention. "Dracunculus medinensis." 2009. http://www.dpd.cdc.gov/dpdx/HTML/Dracunculiasis.htm.
-Centers for Disease Control and Prevention (CDC). 2009. Progress toward global eradication of dracunculiasis, January 2008--June 2009. MMWR Morb Mortal Wkly Rep 16;58(40): 1123-5.
-Harrat Z., and R. Halimi. 2009. [Imported dracunculiasis: four cases confirmed in the south of Algeria]. Bull Soc Pathol Exot 102(2): 119-22.
9. nguyen cong khanh- congkhanh_nhatrang@yahoo.com- 16 li thuong kiet, khoi 2b thi tran eakar, huyen eakar tinh daklak
Hỏi: cho em hỏi, em bị ngứa lâu rồi, lúc trước có đi khám bác sĩ nói em bị mày đay thế là cho thuốc e uống, khi uống thì nó ko ngứa nhưng khi hết uống là nó lại ngứa, có khi nó ngứa cả tháng trời mới hết nó hết rồi lại ngứa em ko biết đó là bệnh gì nữa, uống đủ thứ thuốc rồi, mỗi lần nó ngứa là lên khắp người nhìều nhất ở tay chân và lưng, đặc biệt mặt em ko bị ngứa chỉ ngứa từ cổ trở xuống nó nổi giống bị kiến cắn ý, với lại có khi lên những chấm màu nâu nâu nữa, mấy chấm nâu nâu thi thoa thuốc 1 - 2 ngày là hết nhưng cứ mỗi lần ngứa liên tục nó lai lên. em ko biết em bị bệnh j hết. giúp em với.
Trả lời: Quả thật, với câu hỏi của bạn thì chúng tôi cho bạn một số lời khuyên sau đây: đúng như bạn mô tả thông thường thì các bệnh ký sinh trùng nếu có gây ngứa thường ở vùng thân mình chứa hiếm khi từ vùng cổ trở lên.và các triệu chứng ngứa của bạn hiển nhiên là mày đay rồi và mày day này do nguyên nhân gì gây ra thì khó mà định bệnh chính xác được. Bạn nên nhờ rằng ngứa có thể od nhiều nguyên nhân khác nhau chứ không nhất thiết là do ký sinh trùng hay một loại nào khác có định.
Do đó, chúng tôi chỉ khuyên bạn nên đi khám chuyên khoa da liễu hoặc các bệnh ký sinh trùng để các bác sĩ thăm khám và xét nghiệm cụ thể để có hướng xử trí thích hợp bạn nhé.
10. Ánh Mai- mono.cactus@yahoo.com- 21/5 Nguyễn Tri Phương Quận 10
Hỏi: Kính gửi Ban biên tập và quý bác sĩ, rất mong BBT tư vấn giúp trường hợp của em.
Cách đây chừng 7 năm, em phát sinh chứng ngứa rất dữ dội ở lòng bàn chân, lòng bàn tay, mu bàn tay, mu bàn chân, các ngón chân kẻ chân..nhưng bề mặt da hoàn toàn bình thường, lành lặn không hề nổi mề đay hay bất cứ tổn thương gì. Em có xử dụng Cezil uống liên tục, ngay sau khi thuốc vào người thì cơn ngứa hạ ngay, và cầm cự được vài hôm hay có khi hôm sau ngứa lại..và lại dùng thuốc đến mức gần như bị lờn thuốc. Nhà em không nuôi chó mèo.Em không bị ngứa hậu môn ! Em mới xổ giun theo liều thường cach nay 2 tháng.
Sau đó, em có dùng chừng 3 tháng 1 loại thuốc đông y loại thanh huyết tiêu phong hoàn và Sát độc hoàn ( trong thời gian dùng thuốc này thì xổ rất nhiều, ngày có khi 5 hay 7 lần..sau giảm dần ) thì bệnh ngứa này dứt hẵn đuợc chừng hơn 3 năm. Sau đó, em lại bị ngứa như tình trạng cũ, và em lại mua tiếp thuốc xổ độc như trên, chừng vài tháng và chứng ngứa cũng hết hẵn..kéo dài chừng 2 năm..( duờng như chứng ngứa càng nhặt hơn so với đợt đầu )
Hiện giờ em đang bị chứng ngứa tập 3..dữ dội đến mức phải xoắn 2 bàn tay vào nhau đến sưng lên..vì các kẻ tay rất ngứa..nhưng da bề ngoài vẫn bình thường..không nấm..không lở loét..hay nổi mụt v..v..Em đi bệnh viện đuợc bác sĩ cho xét nghiệm gan ( đồng thời xét nghiệm cả đuờng huyết, mỡ..thận..v..v.. ) và kết quả xét nghiệm rất tốt, nên BS điều trị bảo chỉ có thể cho em uống 2 thứ trong suốt 1 tuần (để quên dứt cảm giác ngứa này đi )
- Telfast 120mg, Cezil
Sau khi em uống hết thuốc thì chứng ngứa lại quay về, em cũng lại mua thuốc Sát độc hoàn uống kèm, nhưng lần này hầu như hết effect..em vẫn ngứa dữ dội. Đồng thời, vào buổi tối khi đi nằm, em cảm giác nhột nhạt trên đầu mũi..gò má..hai bên mặt gần môi..chân tóc..hàm..cảm giác nhột này, thấy như bên trên da.. không phải duới da .. em phải lấy ngón tay quẹt lên chổ nhột đó liên tục.Tối qua thì nhột nhạt không chỉ trên mặt..chân tóc...mà còn lan đến đùi..lưng.. mông..nhưng diện tích bị cảm giác nhột nhạt này không phải lan trên diện rộng mà chỉ nhột nhạt 1 "đốm" nhỏ rất nhanh rồi lại chuyển sang khu vực khác. Phải lấy tay quẹt liên tục..không thể ngủ, suốt đêm vì không quẹt thì cảm giác nhột đó sẽ kéo dài tại 1 vị trí nào đó. Hiện giờ vẫn đang ngứa dữ dội..bất kể, có khi mỗi ngày có khi đôi ba ngày. Em kính mong BBT và các bác sĩ cho em 1 lời khuyên nên điều trị hay cần thêm những xét nghiệm gì ? Em xin chân thành cám ơn.
Trả lời: hình như câu hỏi này được ban biên tập chúng tôi phúc đáp kỳ trước rồi, bạn có thể tìm lại trong chuyên mục hỏi đáp. Thân chúc bạn khỏe!
11. Võ Đức Hiền- hien_to_a12@yahoo.com- sinh viên y khoa-64 nguyễn bỉnh khiêm, TP buôn ma thuột, tỉnh Dak Lăk
Hỏi: cho em hỏi thành phần, tác dụng, cơ chế của dung dich cố định F2AM trong xét nghiệm phân.
Trả lời: Cảm ơn bạn đã đặt câu hỏi về dung dịch F2AM trong các xét nghiệm phân để phát hiện và chẩn đoán bệnh ký sinh trùng và đơn bào, đặc biệt là amip. Trong một số bệnh lý đại tràng khó chẩn đoán xác định là gì thì người ta thường lấy các cạo ra từ niêm mạc trực tràng và bảo quản trong dung dịch F2AM có thể xét nghiệm trong 2 tháng sau đó và các tư dưỡng và nang sẽ biểu hiện đặc tính rõ.
Dung dịch F2AM đóng vai trò như một chất cố định, làm rõ nét và tạo màu cũng như môi trường cho nồng độ. Chúng thật có ích cho các nhà trực tràng học (proctologists) và thầy thuốc thực hiện nội soi trực tràng trong thực hành y khoa và mong láy được mẫu phân và chất nạo ra từ niêm mạc để xét nghiệm. Các dung dịch F2AM dễ pha, thành phần sẵn có trong tất cả nhà thuốc và không đắt tiền. Xét nghiệm kính hiển vi các chất cạo ra từ niêm mạc trực tràng trong trường hợp nghi ngờ loét sẽ mang lại các hình ảnh chẩn đoán đáng tin cậy.
Thân chúc bạn khỏe và tiếp tục với công việc.
12. thao- thaonguyenxanh862002@yahoo.com- ha noi
Hỏi: xin cho em hoi co may loai tieu ban trong xet nghiem, moi loai cho mot vi du cu the!
Trả lời: xin lỗi bạn chúng tôi cũng chưa hiểu hết câu hỏi của bạn, rằng bạn hỏi về loại tiêu bản sốt rét, ký sinh trùng đường ruột hay tiêu bản làm các mẫu vật muỗi bên lĩnh vực côn trùng? Hay là một ý nghĩa khác về loại tiêu bản hay dùng trong các lĩnh vực khác nhau. Có vẻ câu hỏi này hơi chung chung, nên khó trả lời cho bạn thấu đáo.
Nếu về loại tiêu bản theo chuyên môn thì mỗi chuyên khoa có một cách làm tiêu bản riêngbiệt và lệ thuộc vào mục đích của nghiên cứu và xác định của họ. Chẳng hạn, về chuyên ngành ký sinh trùng sốt rét, chúng tôi có ít nhất 4 loại lam máu để xét nghiệm phát hiện, chẩn đoán ký sinh trùng sốt rét, một loại lam nữa là lam mài chuyên làm nghiên cứu đánh giá in vivo về kháng thuốc tại thực địa, lam chia giếng nhỏ chuyên dùng để làmnghiên cứu in vitro và loại lam nữa có phân ô và màu sắc riêng biệt để nghiên cứu miễn dịch (thường làm IFA) đánh giá mức độ miễn dịch trên một cơ thể con người hoặc trong một quần thể dân cư đang sống trong vùng lưu hành bệnh.
Để biết thêm chi tiết, mong bạn đặt câu hỏi cụ thể hơn nhé. Chúc bạn khỏe!