Lê Đình Tr. 47 tuổi, TT Sông Cầu, tỉnh Phú Yên, hoadaiho24@.....
Hỏi: Các bác sĩ cho em hỏi, vì món tiết canh vịt là món khoái khẩu của dân nhậu lai rai hoặc nhậu đẳng cấp, và hình như lại mát và bổ dưỡng cho cơ thể. Tuy nhiên em nghe là khi ăn nhiều tiết canh vịt có thể có thể nhiễm một số loại giun sán? Xin các bác sĩ cho biết thực hư ra sao? Có nên ăn tiếp tục tiết canh nữa không?
Trả lời: Phải nói rằng đây là một câu hỏi đầy thú vị và các vấn đề sau đây chúng tôi đề cập có lẽ sẽ làm cho chúng ta cần suy nghĩ liệu có nên ăn nữa hay không? Việc ăn tiết canh có mát hay không và bổ dưỡng như thế nào cần phải hỏi ý kiến chuyên gia đông y và các nhà dinh dưỡng học chứ nếu chỉ dựa trên cảm nhận chủ quan e rằng không thích hợp để luận giải vấn đề.
Bạn cứ thử trong vai của một người bạn hàng đi mua tiết canh về bán lại hàng quán hoặc mua thực phẩm về nhậu lai rai với số lượng lớn, bạn sẽ ghi nhận một số hình ảnh đáng nói và có thể...
Liên quan đến vấn đề nhiễm bệnh, có lẽ bạn đã biết trong quá trình làm tiết canh, đâu phải các nhà hàng đều có đầy đủ khâu vệ sinh để cắt tiết, sự nhiếm bẩn từ vùng lông trên vịt vấy vào huyết cũng không loại trừ,hơn nữa bạn thử nghĩ một con vịt có bao nhiêu tiết mà mỗi buổi chiều họ chỉ làm vài con vịt nhưng tiết canh luôn đầy đủ cho một lượng lớn người ăn thì cần xem lại vì có thể một số quán vẫn trộn các tiết của các động vật khác hoặc chó, hoặc heo,…chưa kể, trong thành phần tiết canh, phần lớn họ có bỏ các phần tạng động vật hoặc cuống họng, đầu, cổ, cánh, xử lý chưa chín, sau đó trộn với tiết đã được hãm nước mắm,…
Với các hình ảnh trên, có thể tiết canh vịt không thể loại trừ các mầm bệnh như virus cúm gia cầm, vi khuẩn vấy nhiễm từ ngoài vào, các loại ký sinh trùng như sán máng vịt, giun tròn từ vịt và một số mầm bệnh khác…ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của con người, có thể dẫn đến chết người. Việc trộn các tiết khác của động vật như lợn, chó, bò..vào với tiết canh vịt thì chúng ta khó có thể kiểm soát mầm bệnh trộn lẫn.
Như vậy, với các dữ liệu nói trên chúng tôi hy vọng bạn sẽ hiểu thêm về vai trò của tiết canh và các món nhậu liên quan đến tiết canh nếu chưa được xử lý chín,…sẽ là nguồn thực phẩm nhiễm trùng rất nguy hiểm cho sức khỏe con người và vật nuôi nếu ăn phải vào.
Trà Anh T. 58 tuổi, Nguyễn Văn Trỗi, thành phố HCM
Hỏi: Gần đây, chúng tôi thấy con cháu một số đứa có biểu hiện xanh xao, suy nhược rõ mà cho ăn nhiều các chất dinh dưỡng nhưng vẫn không thể nào khắc phục sức khỏe của các con cháu, nghe chúng bảo trên trường cũng được các thầy cô cho uống thuốc số giun, nhưng chúng tôi không biết có đáng tin cậy không và hiệu quả cứ cho uống một viên như thế có tốt không, tôi muốn cho các cháu sổ giun thêm một liều nữa, liệu có được không, mong các bác sĩ cho ý kiến chuyên môn. Để nhận biết con cháu tôi có nhiễm giun không cần có các dấu hiệu gì xuất hiện? Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
Trả lời: Xin cảm ơn về câu hỏi của bạn, đây là một sự lo lắng của không những gia đình bạn mà của cả cộng đồng đang rất quan tâm vì các tác hại của chúng đối với sức khỏe cộng đồng và gia đình chúng ta, nhất là Việt Nam đang là một quốc gia thuộc vùng nhiệt đới Tây Thái Bình Dương, nơi có tỷ lệ nhiễm các loài giun sán ở người tương đối cao thì việc quan tâm đến sổ giun sán là rất cần thiết và phải thực hiện, nếu không sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe mọi người.
Để nhận biết con có bị nhiễm giun hay không, bạn cần lưu ý các biểu hiện tiêu hóa của trẻ như đau bụng, có khi nhầm lẫn với đau dạ dày ruột; táo bón hoặc tiêu chảy xảy ra thường xuyên; phân có thể có nhớt hay máu; đầy bụng khó tiêu; buồn nôn, nôn; chán ăn; thỉnh thoảng có dấu bán tắc ruột nếu lượng giun nhiều, tắc ruột ở trẻ nhỏ do lòng ruột chứa quá nhiều giun, đau thượng vị; đau quanh rốn; đau bụng dưới rất mơ hồ, không điển hình cho bệnh lý tiêu hóa nào,biểu hiện kiểudị ứng thức ăn, da xanh xao, mệt mỏi, thiếu máu, bứt rứt, kém tập trung, ngủ không ngon giấc.
Nếu ấu trùng giun sán lạc nhầm chỗ đi vào phổi có thể dễ bị chẩn đoán nhầm viêm phổi do thở khò khè như hen suyễn; u não, liệt động kinh, mắt sưng, giảm thị lực... Trong số những biểu hiện trên thì những dấu hiệu dễ nhận biết nhất chính là việc bụng trẻ đau và to căng cứng bất thường và bé thường xuyên bị ngứa hậu môn vào ban đêm (do giun kim chui ra ngoài hậu môn đẻ trứng). Bêncạnhgiuntròncòncó nhómký sinhtrùngsándâyvà sánlá nữacũnggâynêncácbiếnchứngvà hậuquảsứckhỏenghiêmtrọng.
Việc dùng thuốc tẩy giun định kỳ là một việc làm rất cần thiết và vô cùngquantrọng, đểdễnhớbạncó thểnhớ đếnhaingày đặtralịchsổgiunchocáccháulà ngày 6/1 và ngày 1/6 hàngnăm, mỗingàydùngmộtviênsổgiunliềuduynhất. Thuốc trị giun đường ruột là thuốc có tác dụng tẩy sạch hoặc làm giảm đáng kể số lượng giun ra khỏi ruột. Để tẩy giun hiệu quả, cần lưu ý là nên tẩy cả cho cả nhà trong cùng một đợt để tránh nhiễm giun chéo. Thông thường, cả người lớn và trẻ em 2 tuổi trở (và cânnặnglớnhơn 10 cân) lên mỗi năm nên tẩy giun 2 lần (trừ trường hợp có chỉ định khác của bác sĩ). Trong trường hợp trẻ nhỏ dưới 2 tuổi, nếu phát hiện hoặc nghi ngờ nhiễm giun thì nên đưa trẻ đi khám và làm xét nghiệm tầm soát. Khi đã có bằng chứng chính xác của nhiễm giun thì trẻ sẽ được điều trị theo sự hướng dẫn của bác sĩ. Khi uống thuốc tẩy giun, trẻ không cần nhịn đói hay ăn kiêng, cũng không phải dùng thuốc xổ.
Việctrêntrường đã sổgiunrồichúngtacó nêndùngthêmmộtliềuthuốcnữamộtkhichúngtakhôngyêntâm, bạncó thểthamkhảothêmphầnhỏi đáptoàntậpphần 1 củatháng 6/2015 cùngtrêntrangwebsitenàyliênquan đếncácvấn đề đềcập đếnsổgiun, bạnsẽhiểurõ và thựchành đúnghơn.
Hiện nay trên thị trường có khá nhiều loại thuốc tẩy giun vớinhiềubiệtdượckhácnhau. Albendazole là một dẫn chất benzimidazol carbamat, có phổ hoạt tính rộng trên các loại giun đường ruột như giun đũa, giun kim, giun lươn, giun móc, giun mỏ, giun tóc, giun xoắn và thể ấu trùng ở cơ và da, các loại sán dây và ấu trùng sán ở mô. Albendazole có hoạt tính trên giai đoạn trưởng thành và giai đoạn ấu trùng của các giun đường ruột, diệt được trứng của giun đũa và giun tóc. Bằng cách ức chế hấp thu glucose, albendazole làm giun mất năng lượng, không đủ để sống, gây bất động rồi chết, xác giun bị nhu động ruột đẩy ra ngoài. Thuốc có tác dụng diệt được cả trứng, ấu trùng giun.
Khi dùng thuốc tẩy giun nói chung và albendazole nói riêng, cần lưu ý những điều sau: Phụ nữ mang thai, đang cho con bú và trẻ em dưới 2 tuổi; bệnh nhân có tiền sử mẫn cảm với các hoạt chất benzinidazole hoặc một trong các thành phần khác của thuốc; bệnh nhân bị suy gan; nhiễm độc tủy xương thì không được dùng thuốc này hoặcnếucó dùngcầnthiếtphảithamvấn ý kiếnchuyênkhoatrongtrườnghợpcầnthiếtdùng. Sau khi uống thuốc ít nhất 1 tháng cũng không nên có thai bởi thuốc có thể gây nguy hại cho thai nhi.Tác dụng phụ khi dùng thuốc có thể gặp là rối loạn tiêu hóa, buồn nôn, nôn, đau thượng vị, nhức đầu chóng mặt, nổi mẩn... Khi gặp một trong các triệu chứng này sau khi uống thuốc, cần liên hệ ngay với bác sĩ để được xử trí kịp thời.
Để hạn chế việc tái nhiễm giun, cần rửa tay sạch sẽ khi ăn; ăn thức ăn chế biến sạch sẽ, nấu kỹ và bảo quản tốt; diệt ruồi và dán, vì chúng có thể bám vào phân hay thức ăn nhiễm trứng giun và bò hay đậu lên thức ăn sạch; rửa sạch sẽ đồ chơi, không để trẻ bò lê dưới đất...
Thân chúc gia đình bạn khỏe!
ĐôngThịHoàiA, 35 tuổi ĐồngXuân, Phú Yên
Hỏi:Thưacácbácsĩ trongViệnSốtrét-KST-CTQuyNhơn, trongnhà tôicó haingườibịbệnhchàmvà hiện đang điềutrịvớicácthuốcuốngvà bôithoahàngngàykhixuấthiệncácvếtchàmtáiphát. Tôikhôngbiếtdùngthuốcthoalâudàinhư thếthì có hạigì cơ thểkhông, kinhmongcácbácchobiếtthưchư rasao đểchúngtôidùngthuốccho đúngbệnh. Chânthànhcảm ơncácbácsĩ !
Trảlời: Chúngtôirấtcảm ơncâuhỏicủabạnvà trênlâmsànghàngngàychúngtôigặpnhiềubệnhnhânlà nạnnhâncủathuốccortocoidesnóichungvà loạikembôicó chứacácdẫnsuấtnàynóiriêng, khiếnchoquá trìnhtrịliệucàngkhó khănhơncholàndacủabệnhnhân.
Liên đới đếncâuhỏivà vấn đềbạnnêura, chúngtôixintrảlờirằngTribetasonlà mộtthuốckembôingoàidacó tácdụng điềutrịphổrộngcácbệnhlý ngoàidavà niêmmạc, baogồmcácchấtchốngviêmbetamethason, khángsinhgentamicinevà clotrimazole, trong đó thànhphầnbetamethasonlà mộthoạtchấtcorticosteroidestácdụngchốngviêm, chốngdịứngtạichỗ, đápứngnhanhtrongcácbệnhlý và biểuhiênlâmsàngtrêndanhư dạngviêmda, chàm, vảynến. Gentamicinlà mộtkhángsinhthuộchọaminoglycosidtácdụngdiệtkhuẩnphổrộng, tácdụngdiệtkhuẩnquacơ chếứcchếquá trìnhsinhtổnghợpproteincủavikhuẩn, tácdụngtrênphầnlớncácvikhuẩnthườnggặptrongnhiễmkhuẩnda, có tácdụng điềutrịhiệuquảtrongcácnhiễmkhuẩndanguyênpháthaythứphát. Clotrimazollà thuốckhángnấmphổrộngnhư nấmda, nấmCandidaspp., langben, nấmtócvà vùngchântóc. Clotrimazolliênkếtvớicácphospholipidtrongmàngtếbàonấm, gâymấtcácchấtthiếtyếunộibàodẫn đếntiêuhủytếbàonấm.
Do vậy, có thểnóiTribetason là thuốc điềutrịbaovâynhiềutácnhângâybệnh, được chỉ định trong các bệnh viêm da dị ứng như chàm, viêm da tiếp xúc, viêm da dị ứng, viêm da tăng tiết bã nhờn, liken phẳng mạn tính, vảy nến, mề đay dạng dát sần; bệnh nấm ngoài da như lang ben, hắc lào, nấm kẽ, nước ăn chân, bỏng nhẹ, vết muỗi đốt, mẩn ngứa, mày đay, viêm da bội nhiễm. Khi dùng thuốc cần phải lưu ý tuân theo chỉ định của thầy thuốc, không được dùng thuốc kéo dài, không bôi thuốc trên diện tổn thương rộng.
Đối với phụ nữ có thai, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ thì phải được bác sĩ cân nhắc lựa chọn giữa lợi ích và tác hại của thuốc. Tuyệt đối không được để thuốc dính vào mắt hoặc bôi thuốc lên vết thương hở. Đối với các bệnh như lao da, tổn thương do virus Herpes simplex, thủy đậu, giang mai. Viêm da chàm hóa vùng ống tai ngoài do chảy mủ tai. Loét da, bỏng từ độ 2 trở lên. Tiền sử mẫn cảm với kháng sinh nhóm aminoglycosid (kanamycin, streptomycin, neomycin) và các trường hợp mẫn cảm với một trong các thành phần của thuốc thì không được dùng kem bôi Tribetason.
Nếulạmdụngvà dùngthuốcnàymộtthờigianrấtdàisẽdẫn đếncăngda, bóngda, nhănda, teoda, khô da, trócda, dễnhạycảmvớinhiễmtrùngtaichỗ, viêmloétdễxảyravà nguycơ nhiễmtrùnglớnhơnsovớicácbệnhnhân ítdùnghơn.
Cũngnhư thuốcTribetason, mộtsốchếphẩmkhácbôithoangoàidacũngnênhạnchếdùngvì hầuhếtchúngnếudùngkéodài đềucó thểdẫn đếntácdụngngoại ý tạichỗhoặctoànthân. Trong điều trị các bệnh ngoài da, thuốc bôi/ thoa có tác dụng tại chỗ vết tổn thương, thường được dùng trong các trường hợp bệnh nhẹ, diện tích da nhỏ, mức độ tổn thương nông.
+ Dạng dung dịch bao gồm hai thành phần là dung môi và thuốc tạo thành một dung dịch đồng nhất. Dung môi có thể là nước, cồn, ete, axeton hoặc glycerin. Thuốc là thành phần chủ đạo vì nó sẽ quyết định hoạt tính dược lý. Đa phần chúng là các thuốc sát khuẩn như xanh metylen, axit boric, tím gentian. Dạng dung dịch chủ yếu dùng với vết thương, loét da, chảy nước.
+ Dạng bột là hỗn hợp khá đồng đều của tá dược và thuốc. Tá dược thường được sử dụng là các loại bột có khả năng thấm hút nước mạnh như bột gạo, bột than, bột talc (Mg2SiO3), bột kaolin (Al2SiO3), bột bismuth. Thuốc trong công thức của thuốc bột thường là các kháng sinh như clorocid. Thuốc bôi dạng này chủ yếu được dùng với các vết thương nhiễm khuẩn chảy nước nhiều và liên tục.
+ Thuốc mỡ là một dạng thuốc chủ yếu nhất trong họ hàng nhà thuốc bôi. Thành phần của nó có mỡ hoặc chất béo nên thuốc dễ ngấm vào sâu và tác dụng tốt. Trong công thức cấu tạo chúng gồm: chất béo, bột tạo hình và thuốc, trong đó bột tạo hình không quá 30% hàm lượng. Chất béo thông dụng là vaselin và lanoline. Thuốc được pha vào là các chất diệt khuẩn như kháng sinh, các axit hữu cơ, các chất làm bong vảy da như axit salicylic, các kháng sinh chống nấm, các corticoid, vitamin... Thuốc mỡ chỉ được dùng khi vết thương đã khô và đóng vảy.
+ Dạng hồ là dạng thuốc bôi, trong đó thành phần giống như thuốc mỡ, bao gồm chất béo, bột tạo hình và thuốc. Nhưng ở dạng này, thành phần bột tạo hình nhiều hơn, từ 30-50% tổng hàm lượng. Vì có nhiều bột hơn nên nó được sử dụng trong giai đoạn bán cấp, vết thương chuẩn bị se da.
+ Kem là dạng một dạng thuốc bôi mà thành phần của nó có đủ: mỡ, glycerin, nước và thuốc. Vì có thêm nước nên nó có vẻ nhão hơn các dạng khác và cũng vì thế mà nó mát hơn. Nó thường được dùng để chế tạo mỹ phẩm. Thuốc đôi khi cũng được bào chế dạng kem với chủ định là làm mát da. Có một điều lưu ý ở đây, dù sử dụng dạng nào thì thuốc bôi không chỉ tác dụng tại chỗ bôi. Nó hoàn toàn có nguy cơ gây ra tác dụng toàn thân. Và đây chính là tác hại của thuốc bôi khi sử dụng bất cẩn.
Thuốc bôi/thoa đa phần chỉ có tác dụng tại chỗ. Song điều này chỉ đúng khi diện tích da tổn thương nhỏ và nông. Khi diện tích da bị ảnhhưởngdiệnrộngvà tổn thương sâu thì thuốc thoa/ bôi có cơ hội ngấm qua da và gây nên những tác dụng ngoại ý toàn thân. Như vậy, diện tích da bôi thuốc rộng, nồng độ thuốc cao, sử dụng kéo dài là 3 yếu tố chủ đạo gây ra những tác phụ ngoại ý ở bên trong cơ thể. Thuốc sẽ có nhiều cơ hội đi vào máu, tích lũy trong các cơ quan và gây ra những tác dụng không mong muốn. Ví dụ, salicylic là thuốc có tác dụng bạt sừng, bong vảy điều trị đặc hiệu những bệnh mà có dày sừng như vảy đầu ở trẻ dưới 1tuổi, vảy nến, mụn trứng cá do bài tiết quá nhiều. Tuy nhiên, nếu ngấm vào cơ thể gây ra tác hại trên hệ thần kinh gây nhức đầu, chóng mặt. Đặc biệt khi chúng ta sử dụng quá nhiều ở những đối tượng sẵn có những biểu hiện này. Nhiều trường hợp ngộ độc salicylic (do cơ thể hấp thu quá nhiều salicylic gây ra) với các dấu hiệu của hội chứng này bao gồm: da xanh, mệt mỏi, chóng mặt, rối loạn hô hấp, ù tai, buồn nôn, lú lẫn. Đã có trường hợp trẻ em bị tử vong do khi bôi thì uống nhầm salicylic gây ra phù thanh quản hẹp thanh quản cấp tính.
Tương tự aciclovir là một thuốc ức chế virus gây bệnh trên da như zona thần kinh. Nó có tác dụng khá tốt khi được dùng tại chỗ. Nhưng nó cũng có thể gây ra phản ứng toàn thân. Một trong các phản ứng toàn thân rõ rệt của loại thuốc này là dị ứng. Trên những bệnh nhân hen cơ địa, aciclovir có thể gây ra phát ban quanh rốn mặc dù chúng bôi ở trên mặt, xuất hiện các ban đỏ dạng sẩn, cục nổi hẳn lên trên mặt da. Tác hại này là do thuốc đã ngấm vào máu, đi từ vị trí bôi đến nơi bộ phận ở da và gây ra dị ứng da. Diện tích bôi thuốc càng rộng thì mức độ dị ứng càng nặng.
Một thuốc khác cũng cần cảnh báo là calcipotriol. Đây là một dẫn xuất của vitamin D được dùng trong trị liệu vẩy nến. Nó có tác dụng ức chế sự tăng sinh tế bào sừng (điều chủ yếu trong vẩy nến), làm tăng biệt hóa tế bào theo hướng bình thường. Nhưng một khi được ngấm vào trong máu thì chúng lại tác động mạnh lên hệ thần kinh trung ương và gây ra đau đầu.
Trên đây chỉ là những ví dụ rất nhỏ về tác hại của thuốc bôi khi dùng không cẩn trọng. Do đó, để dùng thuốc an toàn, hãy cẩn thận khi dùng thuốc bôi trên diện rộng và dài ngày, nhất là với người già và trẻ em. Tốt nhất, không nên bôi quá 3% diện tích cơ thể, tương ứng với diện tích một bàn tay và không nên bôi quá dài ngày, nên kết thúc sớm trước 2 tuần. Trong mọi trường hợp, chúng ta phải tham khảo ý kiến của bác sĩ điều trị.
Vớicácthôngtinởtrên, chúngtôinghĩ rằngbạn đã thấy đượchiệudụngvà táchạicủacácchếphẩmthuốccó chứacorticoides. Nếuchúngtadùngthậntrọngvà theochỉdẫncủabácsĩ và dượcsĩ sẽmanglạihiệuquả điềutrịtối ưunhấtnhé.
Lê ThịH.37 tuổi, đườngNguyễnVănTrỗi, TP. QuyNhơn
Hỏi: Xin đượchỏicácbácsĩ củaViệnSốtrétký sinhtrùngQuyNhơn, ôngnộiemnămnay 78 tuổi, sứckhỏevẫncònrấtmạnhkhỏenhưngkhônghiểusaolạithườngxuyêntáobónvà mỗikhoảng 10-12 ngàymới đicầumộtlần, và mỗilầnnhư thế đi đạitiệnrấtkhó khănvà phảimócmớihoànthànhcôngviệc được. Emmuốnhỏicácbácsĩ có cáchnàogiúpemtránh đượctìnhtrạngtáobóncho ônghaykhông, emrấtcảm ơncácbác.
Trảlời:Chúngtôirấtthôngcảmchovấn đềbạn đanghỏivà chúngtôigặpnhấtnhiềucabệnhngườilớnmắcchứngtáobónnàyvà họsuynhượchoặcbệnhlý nềnsẵncó tănglêncùngvì táobónvì nhucầudạitiệnkhôngthôngsuốtnhư trườnghợp ôngnộicủabạn đó. Nhâncâuhỏicủabạn, chúngtôixinphúc đápnhư sau:
Táo bón (constipation) có nhiềunguyênnhândẫn đến, có thểlà thựcthểcó thểlà chứcnăngtrênmộtcơ thểngười, gâynêncácphiềntoáitrongsinhhoạt đờisốngvà ănuốngtiêuhóacủangườibệnh. Tápbón là một bệnh thường gặp ở người cao tuổi và cả trẻ em nhỏ. Ước tính vào khoảng 28 - 50% số người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên mắc phải do nhiều yếu tố tác động vào khâu này. Có khoảng 10 nguyên nhân gây táo bón ở người già đượccácnhà lâmsàngtổnghợp:
- Thay đổi chế độ ăn ởngườicaotuổi: Người cao tuổi thường có xu hướng ăn ít chất xơ hơn, do khả năng nhai nuốt và tiêu hóa kém. Vì lượng chất xơ trong khẩu phần ăn giảm nên dễ dàng bị táo bón;
- Suy giảm các hoạt động thể chất ở người cao tuổi vì nhiều lý do như tình trạng sức khỏe không đảm bảo, bị mắc các bệnh mạn tính như thoái hóa, viêm khớp, loãng xương; các bệnh tim mạch, huyết áp, đái tháo đường; các bệnh hô hấp mạn tính như tâm phế mạn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, do thói quen ít hoạt động hoặc thói quen nhịn đại tiện lâu. Việc giảm hoạt động thể chất dẫn tới giảm nhu động ruột, giảm bài tiết dịch ruột gây táo bón;
- Táo bón do thuốc đang được sử dụng để điều trị các bệnh mạn tính như thuốc kích thích beta-2 giao cảm haycácthuốc điềutrịbệnhparkinsonởngườicaotuổilàmtăngtiếtnướcbọt, khoomôi, miệng. Thuốc này gây giảm nhu động ruột dẫn đến táo bónl
- Bệnh trĩ là nguyên nhân cũngthườnggặpdẫn đếntriệuchứng táo bón ở người cao tuổi. Khi bị trĩ, bệnh nhân thường có xu hướng nhịn đi đại tiện vì sợ đau và chảy máu;
- Thóiquen nhịn đại tiện lâu và nhiều lần sẽ giảm phản xạ đại tiện, gây tích trữ phân dẫn đến táo bón. Bệnh nhân càng bị táo bón, đi ngoài càng đau và càng dễ chảy máu, kết quả là bệnh nhân càng nhịn đi đại tiện và táo bón ngày càng tiến triển thành vòng luẩn quẩn;
- Nguyên nhân táo bón sau các phẫu thuật ổ bụng. Sự giảm nhu động ruột và cảm giác đau khi rặn dẫn đến bệnh nhân khó đại tiện kèm theo tình trạng phải ăn thức ăn tinh, ít chất xơ, lượng dịch bù không đủ làm phân khô lại, có trường hợp sờ thấy thành chuỗi cứng dọc theo khung đại tràng;
- Táo bón ở người cao tuổi có thể là do uống không đủ lượng nước hàng ngày. Nguyên nhân có thể do mắc các bệnh mạn tính như suy tim phải hạn chế nước nhưng cũng có thể do bệnh nhân bị mắc chứng tiểu đêm, bị u xơ tiền liệt tuyến nên hạn chế uống nước để đỡ đi tiểu tiện.
- Do nhu động đại tràng giảm, các cơ trực tràng và cơ thành bụng yếu nên khả năng tống phân ra bị suy giảm;
- Nguyên nhân bắt buộc phải loại trừ ở người cao tuổi có táo bón kéo dài, đó là các khối u, polyp của đại trực tràng;
- Nhóm người già tuổi từ 80 trở lên, đó là táo bón do suy tuyến giáp. Các triệu chứng kèm theo thường là mạch chậm và phù niêm, ăn uống khó tiêu tuy không rõ rệt như ở người trẻ.
Như trên, bạn có thể thấy được táo bón có thể gặp do nhiều nguyên nhân hoặc chỉ một nguyên nhân đơn thuần kết hợp với các yếu tố thuận lợi làm phát sinh táo bón. Muốn giảm hoặc chấm dứt táo bón, bạn nên đưa ông cụ đi khám đúng chuyên khoa lão khoa để xác định nguyên nhân cụ thể và điều trị giảm nhẹ hoặc dứt điểm tình trạng táo bón bạn nhé.
HuỳnhTấnPh., 29 tuổi, TTSôngCầu, tỉnhPhú Yên
Hỏi:Cácbácsĩ ơichocháuhỏi, cháubịngứalỗtai đã gần 3 thángnayrồi, nhưng đikhámnhiềunơi đượcchẩn đoánvà chothuốc điềutrịkhithì nhiễmký sinhtrùng, khithì nhiễmnấmởtai, khithì bịruồiởtai,…tôi đã điềutrịdứt điểmký sinhtrùngvà gắpruồirarồinhưngvẫncònngứa. Hômquacháu đikhámlạilỗtai (P) đượcbácsĩ chẩn đoánlà viêmtaidonấmtaingoàivà trong. Cháukhôngbiếttạisaocháulạibịnấmtaimặcdù tôivệsinhrấtkỹtaihàngngày. Xincácbácsĩ chocháubiếtnguyênnhânvà cáchchữatrịbệnhnấmtai để đừngtáiphátnữamà càngvềsaucháucànggiảmnghengóngthì rấtkhổchocháu. Cháuxinchânthànhcảm ơn!
Trảlời:Trướchết, chúngtôirấtthôngcảmvềbệnhtìnhcủacháuvà liênquan đếnvấn đềnàychúngtôilầnlượttrảlờichobạnnhư sau:
Bệnhnấmởtaihaynấmởốngtai (Otomycosishaycòngọilà SingaporeEar) là mộthìnhtháibệnhnhiễmtrùngởtaidonấm, mộtdạngbộinhiễmnấmởốngtaingoài (outerearcanal). Bệnhthườnggặpởcácquốcgianhiệt đới, nhiễmtrùngcó thểởdạngcấptínhhoặcbáncấptính, biểuhiệnbởităngtiết, nặngmùi, hôithối, viêm, ngứa, tạovảy, và rấtkhó chịuởlỗtai. Nấmtaicó thểdẫn đếnviêm, trócbócmảngnôngtrênbiểumô tai, từng đóngvảy, mảnhvụnchứacácsợinấm, hóamủvà đautai. Nấmởốngtailà bệnhkhá phổbiếnhiệnnay, chiếm 10% trongsốnhữngbệnhnhânbịviêmốngtai, đặcbiệtởtrẻemdoốngtaingoàinhỏ, có nhiềulôngvà dịchnhầy, tạo điềukiệnthuậnlợichocácloạinấmpháttriển. Thêmvào đó là khí hậuẩmthấp, điềukiệnvệsinhkémnhư ởViệtNamdễcó cơ hộichocácloạinấmgâybệnhpháttriển. Bệnh đặcbiệtdễxuấthiệnvàomùahè. ChúngtôixinchiasẻbàiviếtcủaTS. PhạmBích Đào đềcậpviêmtaidonấm, mờibạnthamkhảo!
Bệnhviêmốngtaingoàidonấmcó thểtiếntriểnmạntínhhoặcbáncấptínhvà thường đitheosauviêmtaidonhiễmvikhuẩnthôngthường. Bệnhhaygặpdonhữngloạinấmnhiễmtrùngcơ hộinhư Aspergillusniger, Candida, Mucoracae, Dermatophytes, và Actinomyces. Nguyênnhâncó thểrấtnhiều, songcó thểtậptrungvàocácnguyênnhânsau đây:
-Lấyráytaisinhnấmtrongtai: là nguyênnhânhaygặpnhất, dodùngcácdụngcụ đểngoáytai, lấyráytaikhôngvô trùng, bệnhnhân đangmắccácbệnhsuygiảmmiễndịch, cácnhiễmkhuẩntạichỗkháckếthợp, chàmốngtai, dùngkhángsinhnhỏtaikéodài, saukhibịchấnthươnghoặcthườngxuyêntắmởcácbểbơikhông đảmbảovệsinhthì khôngchỉmắcnấmởtaimà còncó thểmắccácbệnhlý ngoàidakhác;
-Cácloạinấmnày đềucó thểmọc đượcởtaidomôitrườngốngtairấtẩm ướt. Nếumộtnơinào đó trêncơ thểmắcnấm đềucó nguycơ lâynhiễm đếntaidotayngườibệnh. Ngườitathườnggặpnấmốngtaiởnhữngphụnữmắcnấm âm đạo, không được điềutrị. Nhiềutrườnghợpkhông để ý đến điềunàyvà bấtngờkhibịnấmtaidolâynhiễmchéotừnấm âm đạo.
Tổn thương do nấm gây nên tại tai thường khu trú ở ống tai ngoài hoặc vành tai. Biểu hiện đầu tiên của bệnh nấm ống tai ngoài là cảm giác ngứa trong ống tai, ngứa tăng dần làm bệnh nhân phải dùngtay, tămbông, hoặcdụngcụráytai ngoáy tai liên tục, càng ngoáy càng ngứa. Rất ít bệnh nhân đến khám và chữa ở giai đoạn này. Sau 1-2 ngày, bệnh nhân bắt đầu thấy đau tai, đau tăng lên khi nhai hoặc ngáp. Tai thấy nặng, cảm giác đầy tức trong tai đồng thời nghe kém hơn hẳn tai bên lành hoặc nếu bị cả hai tai thì sức nghe giảm sút, lúc nào cũng như có tiếng gió thổi ù ù trong tai đồng thời có dịch chảy ra ngoài cửa tai màu trắng, vàng, hoặc màu nâu bẩn. Bệnh nhân không thể chịu được nữa mới đến gặp thầy thuốc.
Khám tai thấy một số vảy, mảnh vụn hình thành ở trong ống tai ngoài và vành tai. Ống tai ngoài bị lấp đầy bởi những mảng màu xám, đen hoặc trắng. Quan sát ở mặt trên những mảng này, các sợi bào tử nấm mọc trông như đám mạ. Các mảng này có mùi hôi rất khó chịu. Bóc lấy một phần của mảng bám đem đi soi tươi và nuôi cấy để chẩn đoán xác định loại nấm gây bệnh (có thểnhìnthấytrêncáchỉnhảnhminhhọaởtrênvà nộisoitai đã đượccáctácgiảmô tả).
Việc điều trị nấm tai chủ yếu bằng cácthủthuậtvà phươngphápnội khoa. Các thuốc sử dụng để điều trị chủ yếu là thuốc kháng sinh chống nấm dạng uống và bôi tại chỗ, tùy theo từng loại nấm. Tuy nhiên người bệnh có tiền sử viêm tai giữa có thủng màng nhĩ hoặc vừa viêm tai vừa bị nấm thì phải hết sức thận trọng khi dùng thuốc chống nấm dạng bôi. Khi bị nấm ống tai ngoài, cần làm sạch ống tai bằng dung dịch acid acetic 2%, có thể kết hợp với muối nhôm hoặc muối cacbonat canxi. Sau đó sử dụng thuốc chống nấm tại chỗ như m-cresyl-acetat, aluminum acetat, tolnaftat, clotrimazole, nystatin và một số dung dịch vệ sinh tại chỗ.
Biện pháp cần thực hiện để tránh nấm trong tai: Tuyệt đối không ngoáy tai bằng những dụng cụ không đảm bảo vệ sinh; không để thợ cắt tóc lấy ráy tai hoặc làm vệ sinh tai. Mọi người quan điểm ráy tai là bẩn nên cố lấy cho bằng hết mà không biết rằng ráy tai cũng đóng vai trò đáng kể trong việc bảo vệ thành ống tai, trừ trường hợp ráy quá nhiều ảnh hưởng đến sức nghe. Ngoài tình trạng nấm trong tai còn có thể gặp các bệnh nấm ở họng, nấm mũi, mắt... gây ngứa, hắt hơi, sổ mũi, thuận lợi cho các bệnh đường hô hấp phát triển, nhất là vi khuẩn và virut đường hô hấp, ảnh hưởng đến chất lượng sống của người bệnh.
Để phòng bệnh nấm tai, phải vệ sinh tai hằng ngày, đặc biệt là sau khi tắm, bơi. Mọi người không nên lấy ráy tai tại các tiệm cắt tóc gội đầu. Nếu bị nấm ở một bộ phận nào trên cơ thể thì cần phải điều trị dứt điểm, tránh lây nhiễm sang nhiều vị trí khác trên người và tai. Khi có dấu hiệu lâm sàng bất thường ở tai cần đi khám ở chuyên khoa tai mũi họng để phát hiện và điều trị kịp thời. Những người có tiền sử viêm tai cố gắng tránh nước vào tai, có thể sử dụng bông y tế để nút tai khi bơi.
Thânchúcbạnkhỏevà vớinhữngkiếnthứcởtrênhyvọngsẽgiúpbạnvà gia đìnhcó biệnphápphòngbệnhhợplý nhấtkhỏibịviêmtaidonấmtai.
NguyễnBìnhLanP. 47 tuổi, Quận 3, TP. HồChí Minh
Hỏi:Kínhthưacácbácsĩ củaViệnKý sinhtrùngquinhơn, là mộtysĩ lâunăm, chúngtôirấtbănkhoănvì vừaquacháugáitốicó đikhámbácsĩ taimũihọngvì cháubịviêmxoang, viêmamidanliêntục, mộtnămkhôngbiếtcó mấylần đếmxuể, thếnhưngkhi đikhámtạinhiềubácsĩ chuyênkhoaTMHthì đượcpháthiệnchẩn đoánlà viêmxoangmạntínhkéodàidotràongượcdạdày-thựcquản. Đúnglà khôngrõ tạisaocó trườnghợpnày, chúngtôirấtmongcácthầythuốcgiải đápvì tôithấytrangwebsitenàygiảithíchcohbệnhnhânvà bạn đọcrấtchitiếtvà tôicoi đó là trangwebnằmlòngcủatôilâunay. Kínhchúccácbácsĩ sứckhỏevà vuivẻtrongcuộcsống
Trảlời:Trướctiên, chúngtôirấtvuimừngvì sựtínnhiệmcủaanhchi đốivớitrangtin điệntửvà chuyênngànhcủaViệnchúngtôitrongthờigianqua. Kínhchúcgia đìnhbạnkhỏemạnhvà thànhcôngtrongcuộcsống. Liênquan đếncâuhỏicủabạn, chúngtôixinchiasẻbàiviếtcủaThS.Bs. Phạm Thị Bích Thủy đềcập đếnvấn đềnàynhư sau:
Ở trẻ em, bệnh viêm mũi xoang thường kéo dài dai dẳng. Nếu không phát hiện được bệnh và nguyên nhân gây bệnh để điều trị kịp thời, đúng đắn có thể dẫn đến các biến chứng xấu như viêm phế quản, viêm tai giữa, viêm mắt, viêm màng não... kết quả làm ảnh hưởng tới thể chất của trẻ. Một trong những yếu tố liên quan tới bệnh viêm xoang trẻ em là hội chứng trào ngược dạ dày - thực quản.Viêm mũi xoang có thể gặp ở cả người lớn và trẻ em, tiến triển kéo dài và có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm. Ở trẻ em, bệnh có biểu hiện lâm sàng khá phức tạp với các triệu chứng không điển hình do sự phối hợp nhiều nguyên nhân khác nhau như yếu tố cơ địa, mối liên quan tới quá trình hình thành và phát triển các xoang, cũng như ảnh hưởng của các bệnh lý các cơ quan lân cận.
Chính vì vậy, cha mẹ thường chủ quan, nhiều khi tự điều trị các triệu chứng như nghẹt mũi, sốt... tại nhà. Nếu có đưa tới bác sĩ thì việc thăm khám lâm sàng ở trẻ em cũng gặp nhiều khó khăn như trẻ sợ hãi, khóc lóc, không hợp tác, hốc mũi nhỏ nên việc phát hiện đầy đủ các triệu chứng là rất khó khăn, khó đánh giá hết các vị trí tổn thương nên thường có những sai lầm trong chẩn đoán, dẫn đến kết quả điều trị bị hạn chế. Nguyên nhân gây bệnh xoang ở trẻ em thì có nhiều như dị ứng với môi trường, khói bụi, hít phải nước bẩn, ô nhiễm như tại ao hồ, sông suối khi bơi lội, hoặc bội nhiễm từ các bệnh lý liên quan như viêm họng. Ngoài ra, còn có một nguyên nhân khác là trào ngược dạ dày-thực quản (DD-TQ).
Trào ngược DD-TQ là một hội chứng gây ra do nhiều nguyên nhân. Nhìn chung ở khía cạnh liên quan, nó làm cho dịch dạ dày trào ngược lên vùng mũi họng gây nên axit hóa vùng niêm mạc này dẫn đến những rối loạn trong quá trình hoạt động của hệ thống lông nhày, viêm nhiễm niêm mạc gây phù nề bít tắc lỗ thông mũi xoang dẫn tới viêm mũi xoang. Trào ngược DD-TQ thật ra là khá phổ biến ở trẻ nhỏ. Theo thống kê, đây được xem như một hiện tượng sinh lý bình thường do sự phát triển còn non nớt của hệ tiêu hóa ở trẻ nhỏ. Ước tính có hơn 50% trẻ khỏe mạnh có tiền sử trào ngược DD-TQ trong 3 tháng đầu đời. Con số này tăng lên 67% ở thời điểm 4 tháng tuổi. Tuy nhiên, tình trạng này sẽ thoái lui khi trẻ lớn lên nhờ các cấu trúc của đường tiêu hóa dần hoàn chỉnh và chế độ ăn cũng đặc dần. Ở thời điểm 8 tháng tuổi thì có đến 85% trẻ bị trào ngược sẽ hết triệu chứng và chỉ khoảng 5% trẻ tiếp tục vẫn bị trào ngược sau thời điểm 1 tuổi. Nhóm trẻ này sẽ dễ có nguy cơ xuất hiện các biến chứng của trào ngược, gây ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ và tình trạng trào ngược sinh lý trước kia giờ trở thành bệnh lý, đó là bệnh trào ngược DD-TQ.
Cơ chế bệnh sinh gây viêm mũi xoang cấp tính là do phù nề bít tắc lỗ thông mũi xoang, ứ đọng các dịch tiết trong xoang gây viêm xoang cấp, các lông chuyển và hệ thống dịch nhày bị giảm hoạt động và khó khôi phục trở lại. Lỗ thông mũi xoang ở trẻ nhỏ hẹp hơn ở người lớn, niêm mạc lại dễ bị phù nề làm lỗ thông mũi xoang bị tắc, sự thông khí giữa mũi xoang bị mất, dẫn đến sự giảm ôxy trong xoang làm áp lực trong xoang giảm, niêm mạc xoang dày lên và tăng xuất tiết, suy giảm chức năng của hệ thống lông nhày từ đó gây viêm xoang.
Lỗ thông mũi xoang không chỉ có vai trò thông khí mà còn rất quan trọng trong vai trò dẫn lưu để đảm bảo quá trình dẫn lưu dịch từ xoang ra mũi. Khi lỗ thông này bị tắc làm mất đi chức năng dẫn lưu, các chất xuất tiết ứ đọng trong xoang làm rối loạn chức năng của hệ thống lông nhày, đồng thời tạo ra sự giảm áp lực trong xoang hút ngược chiều dịch từ mũi vào xoang kèm cả vi khuẩn gây viêm xoang. Như vậy, từ một viêm xoang cấp dần dần chuyển thành viêm xoang mạn tính.
Hiện nay, tỷ lệ trẻ mắc các chứng bệnh dạ dày ngày càng tăng, tuổi mắc cũng ngày càng nhỏ. Vì vậy, khi trẻ bị viêm xoang cần nghĩ tới một trong những yếu tố liên quan là trào ngược DD-TQ. Điều trị bệnh viêm xoang do trào ngược cần kết hợp điều trị bệnh viêm xoang và bệnh trào ngược DD-TQ thì mới có hiệu quả. Bên cạnh đó, cha mẹ, người thân của trẻ nên chú ý những triệu chứng sau đây của bệnh viêm xoang để kịp thời đưa trẻ tới bác sĩ: chảy mũi mủ qua cửa mũi trước và sau, xuống họng; ngạt tắc mũi từng lúc hoặc thường xuyên; hay khịt khạc; ho; hơi thở hôi; đau đầu hoặc đau nhức kích thích vùng mặt từng đợt hoặc liên tục; thay đổi tính tình; nôn trớ nhiều; nuốt khó; trẻ ợ khó sau khi ăn; từ chối ăn, thường phải ép ăn. Ngược lại, cần phát hiện sớm hội chứng trào ngược thực quản ở trẻ để phòng ngừa bệnh gây biến chứng viêm xoang.
NguyễnQuỳnhTh. 72 tuổi, P. Ngô Mây, QuyNhơn
Hỏi:Hiênnaytôi đangcó cháubịbệnhthủy đậuhaytráirạtrênkhắpthânmình, khôngbiếttạisaogia đìnhtôinămnaycó nhiềungườibịnhư thếkhôngbiết, hếtbà xã nhà tôi, đếnmẹnó, bầygiờ đếnnó đấy. Nhưngdolầnnàycháubịnhiễmtrùngnặngquá. TôixinlờikhuyêncủaBS đểchămsóccháutốtnhất, tránhbịsẹodotráirại.
Trảlời:Trướchếtchúngtôixinlỗivì đã trảlờichobácchậmhơnsovớithời điểmmà báchỏivì có rấtnhiềucâuhỏicủabạn đọc đã hỏikỳtrướcvẫnchưaphúc đápdoquá nhiềucôngviệctrongViện. Liênquan đếncâuhỏicủabác, chúngtôixinphúc đápnhư sau:
Thủy đậu hay còn gọi theo dân gian là bệnh trái rạ/ phỏng rạ, là một trong những bệnh nhiễm trùng có tính lây nhiễm rất cao trong cộng đồng. Trẻ em là nhóm đối tượng dễ bị lây bệnh thủy đậu nhất vì sức đề kháng còn yếu kém và cơ hội tiếp xúc với môi trường sống khá rộng. Hiện tại các thành phố lớn, khu vực sống đông dân cư, thời tiết nóng ẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho virus và con người phơi nhiễm mạnh, nên một số tác giả ví von có vẻ như đang vào mùa thủy đậu. Theo thống kê hàng năm của ngành y tế, bệnh thường xuất hiện nhiều vào khoảng tháng 3- 4 trong năm. Theo Viện Pasteur TP. HồChí Minh, bệnh thủy đậu ở nước ta xảy ra quanh năm nhưng thời gian số người mắc bệnh thủy đậu thường tăng cao là từ tháng 2-6 hàng năm. Nhất là vào tháng 3. Đây là khoảng thời gian độ ẩm trong không khí khá cao tạo điều kiện thuận lợi cho virus gây bệnh thủy đậu phát tán và lây bệnh cho con người. Cầnlưu ý biểu hiện bóng nước khá giống bóng nước của bệnh tay chân miệng
Khitrẻbịnhiễmbệnhphụhuynhcầnchú ý mộtsố đặc điểmquantrọngsau đểgiúptrẻmaulànhbệnhvà giúpphòngngừasựlâylanbệnhthủy đậutrongcộng đồngmộtcáchhiệuquả.
Bệnhthườngcấptínhdovirus Varicella - Zoster và loạivirusgây bệnh thủy đậu lây chủ yếu qua đường hô hấp, người lành dễ bị nhiễm bệnh nếu hít phải những giọt nước bọt bắn ra khi bệnh nhân thủy đậu ho, hắt hơi hoặc nhảy mũi, nhất là trẻ em. Một số cách lây nhiễm khác có thể xảy ra nếu chúng ta không cẩn thận khi tiếp xúc với bệnh nhân thủy đậu như bệnh có thể lây từ dịchtrong bóng nước khi bị vỡ ra, lây từ vùng da bị tổn thương hoặc lở loét từ người mắc bệnh. Đặc biệt, phụ nữ mang thai không may bị nhiễm bệnh sẽ rất dễ lây cho thai nhi thông qua nhau thai.
Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhất vẫn là trẻ em nhóm tuổi đi học. Theo thống kê của Viện Pasteur TP. HồChí Minh, có tới 90% số bệnh nhân bị nhiễm bệnh là trẻ em có độ tuổi từ 2-7 tuổi. Thời gian gần đây, theo ghi nhận tại các cơ sở khám chữa bệnh số người lớn bị nhiễm thủy đậu bắt đầu phổ biến, có nhiềungườitrên 80 tuổivẫnbị. Đây chính là nguồn lây nhiễm thuận lợi và nhanh chóng cho trẻ em vì trẻ nhỏ sức đề kháng chưa hoàn thiện, đặc biệt là những trẻ chưa được tiêm vaccinephòngbệnh thủy đậu.
Mặcdù, vềghinhậnbệnh thườnglà lành tính, nhưng đôikhi có thể gây nhiều biến chứng nguyhiểmchobệnhnhân. Bệnh thủy đậu nếu được chăm sóc đúng cách, nhất là việc giữ vệ sinh da, vệ sinh cá nhân tốt thường bệnh sẽ tự khỏi trong vòng 10-14 ngày và không để lại bất kỳ biến chứng nào. Những biến chứng nghiêm trọng của bệnh thủy đậu đã được các bác sĩ điều trị ghi nhận, đặc biệt là những trường hợp mắc bệnh thủy đậu nặng với việc chăm sóc chưa phù hợp, cụ thể như:
-Nhiễm trùng nốt đậu dẫn đến lở loét da trẻ, nếu không được điều trị tích cực và đúng cách có thể để lại sẹo xấu vĩnh viễn trên da;
-Nhiễm trùng huyết làm suy sụp sức khỏe, nếu không điều trị kịp thời à dẫn đến tử vong;
-Biến chứng viêm não-viêm màng não do thủy đậu tuy hiếm gặp nhưng thường để lại những di chứng nặng nề như bại não, điếc, chậm phát triển tâm thần-động kinh à gánh nặng bệnh tật cho gia đình và xã hội;
-Một số bệnh nhi có thể xuất hiện biến chứng viêm phổi nặng do vi rút thủy đậu.
Người lớn hoặc trẻ em sau khi bị nhiễm thủy đậu tự nhiên thường cơ thể có tính miễn nhiễm rất cao, hệ miễn dịch của cơ thể tạo được lượng kháng thể tự nhiên đầy đủ và tồn tại rất bền vững, hầu như rất hiếm gặp những trường hợp bị nhiễm thủy đậu lần thứ 2. Tuy nhiên có khoảng 10% số người đã bị nhiễm thủy đậu có khả năng sẽ mắc bệnh Zona/ giời leo. Bệnh Zona thường xuất hiện ở người trungniênvà cao tuổi, người mắc bệnh suy giảm miễn dịch tự nhiên hoặc mắc phải, người đang điều trị các thuốc ức chế miễn dịch…
Vềmặtlâmsàngcầnchú ý và phânbiệtvớicácbóngnướctổnthương, nhấtlà trongbệnhtaychânmiệng:
-Bóng nước trong bệnh thủy đậu có nhiều kích cỡ khác nhau (do thời điểm xuất hiện bóng nước khác nhau), trong khi đó bóng nước trong bệnh tay chân miệng rất đồng đều;
-Bóng nước trong bệnh thủy đậu xuất hiện toàn thân, trong khi bóng nước của bệnh tay chân miệng thường xuất hiện khu trú ở những vị trí đặc trưng như lòng bàn tay, lòng bàn chân, ổ miệng hoặc vùng mông, vùng khớp gối;
-Bóng nước trong bệnh thủy đậu thường gây ngứa và đau khi ta ấn lên vùng da có bóng nước, bóng nước của bệnh tay chân miệng thường không gây ngứa và ấn không đau.
Khiphụnữmangthaibịthủy đậuởbấtkỳthaikỳnàocũngnguyhiểm, đặcbiệtở 3 tháng đầucủathaikỳ, virussẽdễgâysẩythai. Haykhisinhratrẻsẽbịthủy đậubẩmsinhvớinhiềudịtậtnhư đầunhỏ, cogồngtaychân, bạinão, sẹobẩmsinh...mẹcó thểbịviêmphổinặng. Phụ nữ có thaibịthủy đậutrongnhữngngàysắpsinhhaysausinhtrẻbịlâybệnhtừ mẹ thì bệnhrấtnặngvớimụnnướcnổirấtnhiềuvà dễbịbiếnchứngviêmphổi. Thựctế bệnhviệnNhitrung ương đã tiếpnhậnnhiềutrẻ bị thủy đậubộinhiễmdolâytừ mẹ. Mộtsốbệnhnhân, saukhibệnh đã khỏi, virusthuỷ đậuvẫncòntồntạitrongcáchạchthầnkinhdướidạngbấthoạt. Nhiềunămsau đó, khicó điềukiệnthuậntiệnnhư sức đềkhángcơ thểkémhaycó yếutốgì khác, thì virusnàysẽtáihoạt độngtrởlạivà gâyratổnthươngdadướidạngbệnhzona, mà dângianthườnggọilà bệnhgiờileo.
Điềumaymắnchocộng đồnglà bệnhthủy đậu đã có vaccinegiúpphòngbệnh. Phòng ngừa tạm thời là giúp trẻ nâng cao ý thức tự phòng vệ: hạn chế tiếp xúc với người nhiễm bệnh, giữ gìn vệ sinh cá nhân và môi trường sống tốt. Phòng ngừa chủ động, hiệu quả và an toàn nhất là đưa trẻ từ 12-15 tháng tuổi đi tiêm ngừa vaccine thủy đậu, một vaccine đã được kiểm chứng là hiệu quả bảo vệ cao (sau tiêm chủng khả năng phòng ngừa đạt 95-97%), với độ an toàn gần như tuyệt đối (chỉ khoảng 5% người chủng ngừa bị sốt nhẹ sau tiêm).
Đối với phụ nữ ở tuổi lập gia đình nên tiêm phòng thủy đậu vì đây là biện pháp an toàn và hiệu quả nhất. Ở nước ngoài người ta vẫn khuyến cáo phụ nữ chuẩn bị lập gia đình nên đi tiêm phòng vắc xin thủy đậu. Vaccine này đã được chứng minh là có hiệu quả bảo vệ cao 97% và kéo dài trong suốt cuộc đời.
Theo khuyến cáo của Hiệp hội Tư vấn và Thực hành tiêm chủng Mỹ, để bảo vệ trẻ tối ưu và phòng tránh tình trạng tái nhiễm thủy đậu sau tiêm chủng phụ huynh nên cho trẻ tiêm đủ 2 liều vaccine thủy đậu, liều thứ 2 cách liều đầu tốt nhất sau 6 tuần hoặc tiêm nhắc liều thứ 2 lúc trẻ được 4-6 tuổi để gia tăng hiệu quả bảo vệ cho trẻ.
HuỳnhNhựtQ., 32 tuổi, YênPhong, Nam Định, 0912…
Hỏi:Xin đượchỏiquý thầythuốcởtrangtin điệntửtừViệnSốtrétQuyNhơn, chatôibịbệnhParkinsonhơn 10 nămquavà hiện đangdùngthuốc điềutrị, nhìnchungvấn đề điềutrịbệnhkhôngkhảquancholắm, gần đâyngoàicáctriệuchứngruntaychân, các đầuchi, chảynướcbọtliêntục, sữngsờkhinhìnconcháu, giảmtrí nhớvà đilạikhó khăncó khicứng đờ. Gia đìnhchúngtôibiếtcáctriệuchứngnhư thếrấtrõ vì đã chămsóc ông đã lâuvà thường đưa ông đikhámvà điềutrị. Tuynhiên, khoảng 2 thángnaythì ôngcó triệuchứngtrênlạithêmtriệuchứngbuồnnônvà nôn, đượccácbácsĩ chodùngthêmthuốcchốngnôndomperidonvớithuốc điềutrịParkinson, nhưngliệudùnglâudàinhư thếcó ảnhhưởng đếnsứckhiercủa ôngkhông, xin đượctrảlờisớmcàngtốt. Gia đìnhchúngtôixincảm ơn!
Trảlời:Chúngtôixinchỉasẻvềbệnhtậtcủa ôngcụởnhà cáccanhchịvềmắcphảibệnhParkinsonhaycòngọilà liệtrung. Bệnhnhânphảidùngthuốc điềutrịthườngxuyênhàngngàyvà có chế độchămsóc đặcbiệtvà theodõicáctriệuchứngcũngnhư cáctaibiếngiántiếpdobệnhsinhranhư té, nghã,...
Domperidon là chất kháng dopamin, thuốc hầu như không có tác dụng lên các thụ thể dopamin ở não, nên domperidon không ảnh hưởng lên cơ quan tâm thần và thần kinh. Domperidon kích thích nhu động của ống tiêu hóa, làm tăng trương lực cơ thắt tâm vị và làm tăng biên độ mở rộng của cơ thắt môn vị sau bữa ăn, nhưng lại không ảnh hưởng lên sự bài tiết của dạ dày.
Thuốc dùng để điều trị triệu chứng buồn nôn và nôn, cảm giác trướng và nặng vùng thượng vị, khó tiêu sau bữa ăn do thức ăn chậm xuống ruột; trị triệu chứng nôn ở người bệnh đang điều trị bằng thuốc độc tế bào và cả chứng buồn nôn và nôn do dùng levodopa hoặc bromocripxin ở người bệnh Parkinson.
Lạm dụng thuốc chống nôn domperidon có thể gây co thắt tâm vị.
Bệnh nhân bị nôn sau khi phẫu thuật hoặc bị xuất huyết đường tiêu hóa và trẻ nhỏ dưới 1 tuổi thì không được dùng thuốc này để điều trị nôn. Đối với bệnh nhân Parkinson, khi đã được bác sĩ khám và chỉ định thì cần dùng thuốc theo đúng hướng dẫn về liều lượng cũng như thời gian và uống vào thời điểm nào là tốt. Xin lưu ý bạn thêm rằng, chỉ nên dùng thuốc chống nôn domperidon cho bệnh nhân mắc bệnh Parkinson khi các biện pháp chống nôn khác an toàn hơn không có tác dụng.
Thuốc cũng không được dùng quá 12 tuần cho những bệnh nhân này. Trong quá trình dùng thuốc có thể gặp phải các triệu chứng ngoại ý như buồn ngủ, rối loạn kinh nguyệt, vú to. Nếu tác dụng ngoại ý trở nên nặng nề, cần ngừng thuốc và thông báo ngay cho bác sĩ. Với người bệnh Parkinson thường phải uống thuốc chống trầm cảm, hai loại thuốc này không gây ra những tương tác có hại. Nhưng nếu bệnh nhân đang phải uống thuốc kháng cholinergic; thuốc kháng acid hoặc thuốc ức chế tiết acid thì cần phải thông báo cho bác sĩ biết để có biện pháp hạn chế các tương tác thuốc có thể xảy ra và làm giảm hiệu quả hoặc tăng độc tính của thuốc chống nôn domperidon (theo ý kiếnchuyêngia).
Thânchúccảgia đìnhvuikhỏe!
Lê Mạnh Hà, 46 tuổi, Hàm Thuận Nam, Tỉnh Bình Thuận
Hỏi: Kính thưa cácy bác sĩ của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, hômquavợtôi bị ngộ độc thức ăn, nhưng tôi đưa đi khám bác sĩ chuyên khoa nộitrước đó không nhận ra, sau đó buổivợtôibiểuhiệntìnhtrạngnặnghơnthì nhậpviệncácbácsĩ mớichẩn đoánngộ độcthức ăn. Nay tôi xin hỏi làm thế nào phát hiện ra ngộ độc thức ăn và cách xử trí tốt nhất là như thếnào? Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
Trảlời: Liênquan đếncâuhỏicủabạn, chúngtôicũngrấtchiasẻvềmốilolắngcủabạnvà giađìnhcũngnhư mộtsốthànhviênkhácvì hiệnnay đangrơivàomùahè và tìnhtrạngmuabánhàngrong, cũngnhư vệsinhantòanthựcphẩmchưa đượctốtởmộtsốkhuvực ănuống,…Do đó, chúngtôichiasẻvớibạnvềcáchnhậnravà xửtrí cấpcứubệnhnhânngộ độcthức ăndothạcsĩ BùiQuỳnhNga đưara đểgiúpbạn đọcbiếtcáchxửlý cấpcứungườibịngộ độcthức ăn, báoSứckhỏe & Đờisốngxingiớithiệubàiviếtdưới đây.
Nguyên nhân và triệu chứng ngộ độc thức ăn
Ngộ độc thức ăn là các trường hợp nhiễm độc hoặc nhiễm khuẩn do thức ăn gây ra. Thức ăn có thể bị nhiễm khuẩn trong quá trình bảo quản, chế biến hoặc bản thân thức ăn chứa độc chất như một số thịt, cá, con cóc, quả dứa, củ sắn...Có 3 loại nguyên nhân gây ngộ độc thức ăn: một là ngộ độc histamin, do thức ăn có chứa độc chất như cá ngừ, cá nóc, cóc hoặc do thức ăn gây dị ứng như dứa, lạc...; hai là nhiễm độc nhiễm khuẩn thức ăn: do thức ăn nhiễm các loại vi khuẩn như Clotridium botilium, Samonella, Shigella, tụ cầu, phẩy khuẩn tả; ba là ngộ độc do thức ăn nhiễm nấm. Tùy theo nguyên nhân gây ngộ độc mà có các triệu chứng khác nhau. Thông thường, các triệu chứng ngộ độc thức ăn là: buồn nôn và nôn mửa; ỉa chảy, ỉa nhiều lần và phân lỏng; nổi mẩn ngứa, mề đay khắp người; nếu ngộ độc nặng, bệnh nhân có thể bị truỵ tim mạch, khó thở dạng hen phế quản. Xét nghiệm mẫu thức ăn lưu nghiệm, cấy phân có thể xác định được tác nhân gây bệnh.
Xử lý cấp cứu người ngộ độc thức ăn
-Cấp cứu bệnh nhân: việc trước tiên là phải làm cho người bị ngộ độc nôn ra cho hết chất đã ăn vào dạ dày bằng cách gây nôn, rửa dạ dày, tẩy ruột, ngăn cản sự hấp thu chất độc, phá hủy độc tính đồng thời bảo vệ niêm mạc dạ dày.
-Gây nôn: để tống thức ăn ra ngoài, áp dụng trong những trường hợp thức ăn chứa chất độc chưa kịp xuống ruột và còn lưu ở dạ dày. Cách gây nôn thông thường là ngoáy họng. Rửa dạ dày càng sớm càng tốt, chậm nhất là 4 - 6 giờ sau khi ăn phải chất độc. Rửa cho đến sạch mới thôi. Thường rửa bằng nước ấm, hoặc khi biết rõ chất độc có thể rửa bằng nước pha thêm thuốc phá hủy chất độc thành chất không độc, thí dụ: ngộ độc sắn dùng dung dịch xanh metylen.
-Cho uống thuốc tẩy: khi thời gian ngộ độc tương đối lâu, chất độc có thể còn lưu lại trong ruột, cho uống 15 - 20g magiê sunfat (uống 1 lần để tẩy).
-Ngăn cản sự hấp thu, phá hủy chất độc, đồng thời bảo vệ niêm mạc dạ dày. Có thể dùng những chất sau đây: trung hòa chất axit có thể dùng những chất kiềm yếu như nước xà phòng 1%, nước magie oxyt 4%, cứ cách 5 phút lại uống 15ml. Tuyệt đối không được dùng thuốc muối (bicacbonat) để tránh hình thành CO2 đề phòng thủng dạ dày do tiền sử bệnh nhân có bị loét. Ngộ độc do chất kiềm thì cho uống dung dịch axit nhẹ như giấm, nước quả chua như nước chanh, khế, sấu...
-Hấp phụ chất độc: dùng than hoạt (5 - 10g), thuốc carbophos...
-Bảo vệ niêm mạc dạ dày: dùng các chất bột như bột mì, bột gạo, sữa, lòng trắng trứng gà, nước cháo... Những chất này không những bảo vệ niêm mạc dạ dày, giảm nhẹ kích thích mà còn có tác dụng bao chất độc, ngăn cản sự hấp thu chất độc vào cơ thể.
-Nếu ngộ độc kim loại như chì, thủy ngân... có thể dùng lòng trắng trứng hoặc sữa, hoặc natrisunfat. Ngộ độc kiềm, có thể dùng nước chè đặc hoặc 15 giọt cồn iốt hòa vào một cốc nước cho bệnh nhân uống.
-Chất giải độc: có thể dùng thuốc để kết hợp với chất độc thành chất không độc. Thường dùng là hỗn hợp gồm: than bột 4 phần, magie oxyt 2 phần, axittanic 2 phần, nước 200 phần để chống ngộ độc do glucozit, kim loại nặng, axit...
-Điều trị nguyên nhân: diệt vi khuẩn bằng thuốc kháng. Nếu bệnh nhân nhiễm khuẩn nặng thì dùng thuốc kháng sinh mạnh. Điều trị hỗ trợ: truyền dịch, hồi phục thể tích tuần hoàn càng nhanh càng tốt.
Để tránh ngộ độc thì thực phẩm dùng để làm thức ăn phải tươi, không dập nát. Thực hiện ăn chín, uống sôi. Thức ăn nấu chín nên ăn ngay. Thức ăn không ăn hết cần đun lại rồi mới cất giữ trong tủ lạnh. Khi ăn lại vẫn phải đem đun sôi rồi mới ăn. Loại bỏ những phần nghi là gây độc như bỏ vỏ sắn và ngâm nước trước khi luộc; không ăn khoai tây đã mọc mầm; bỏ da, đầu, ruột, mật cá trước khi nấu...Diệt ruồi, gián, chuột... Không hái nấm ở dọc đường hay trong rừng để ăn. Rửa sạch tay bằng xà phòng trước khi ăn hay khi nấu ăn.