Phạm Viết Trà, ytcc Trà Vinh, Vietrapham67@yahoo.com., 0913. 435…
Hỏi:
Kính thưa các bác sĩ chuyên ngành sốt rét của Ban biên tập Viện Sốt rét KST- CT Quy Nhơn, trước đây tiêu chuẩn chẩn đoán sốt rét nặng và sốt rét ác tính là có một phần liên quan đến tiểu cầu giảm ? Tuy nhiên, trong thời gian gần đây chúng tôi gặp rất nhiều ca bệnh có thông số tiểu cầu giảm nặng < 100.000/ml máu, thậm chí có trường hợp dưới 40.000/ ml máu mà không thấy biểu hiện nặng gì cả (ngay cả xuất huyết da hay phủ tạng) làm cho chúng tôi rất băn khoăn trong chẩn đoán phân biệt sốt rét ác tính với sốt xuất huyết. Kinh mong quý bác sĩ giải thích chi tiết. Xin cảm ơn rất nhiều!
Trả lời:
Chúng tôi rất cảm ơn câu hỏi của bạn về vấn đề liên quan đến các thông số cận lâm sàng trong dự báo, chẩn đoán một ca bệnh sốt rét ác tính với lượng tiểu cầu trong máu. Như bạn đã biết hình ảnh lâm sàng về bệnh sốt rét trong thời gian qua đã thay đổi rất nhiều, đặc biệt hình thái lâm sàng và biểu hiện thuận chiều của các chỉ số cận lâm sàng không phải lúc nào cũng theo “sách vở” nữa. Đặc biệt trong 4 năm qua, các tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới và các tạp chí y học nổi tiếng trên thế giới cũng đã mô tả và đưa ra các lý giải rất tuyệt vời. Một trong những điều đó chính là thông số tiểu cầu.
 |
Số lượng tiểu cầu có trong một đơn vị máu bình thường là 150.000 - 400.000 tiểu cầu/mm³ máu. Tiểu cầu có vai trò quan trọng trong quá trình đông cầm máu, vì vậy khi số lượng tiểu cầu giảm dưới 100.000/mm³ máu thì nguy cơ xuất huyết tăng lên. Chức năng chính của tiểu cầu là tiểu cầu giải phóng thromboplastin để giúp đông máu. Tiểu cầu còn có đặc tính ngưng lại thành cục,nhờ đó góp phần đóng các vết thương. Khi vỡ , tiểu cầu giải phóng serotonin gây co mạch để cầm máu. Sự đông máu là sự thích nghi tiến hóa cho sự “sửa chữa” cấp thời của hệ tuần hoàn và để ngăn cản sự mất mát quá lớn dịch cơ thể khi mạch máu bị tổn thương. Sự đáp ứng tức thời bằng cách mạch máu khép lại, làm cho máu chảy chậm, các tiểu cầu ở vùng này dính vào nhau và dính vào mô tổn thương, tạo 1 đám tiểu cầu bị ngưng kết. Ðám tiểu cầu được ổn định bằng 1 mạng lưới các sợi được tạo ra quanh tiểu cầu, các tế bào khác có thể đan xen vào các sợi làm căng cục máu. Các sợi tạo ra do sự hợp thành từ các protein gọi là fibrin. Sợi fibrin được thành lập trong qúa trình đông máu khi 1 protein tan trong huyết tương là fibrinogen được biến đổi thành fibrin không hòa tan. Qúa trình đông máu bắt đầu khi bề mặt của mạch máu bị tổn thương phóng thích 1 chất gọi là thromboplastin, chất này kết hợp với các protein . Phức hợp này biến đổi protein của huyết tương là prothrombin thành thrombin. Ion Ca2+ và một phospholipid chuyên biệt trên bề mặt tiểu cầu cần thiết cho qúa trình xảy ra. Bước cuối cùng của qúa trình là thrombin biến đổi fibrinogen thành fibrin. Qúa trình đông máu với sự tham gia của nhiều yếu tố, thiếu 1 trong các yếu tố cần thiết cho qúa trình đông máu, toàn bộ chuỗi phản ứng có thể bị hỏng, song vì tiểu cầu có tính “uyển chuyển” và trong một số bệnh lý có hoạt động bù trừ và giúp lẫn nhau nên có thể chưa gây nên các biến chứng xuất huyết trên lâm sàng.
Chúng tôi đồng ý với bạn rằng rất nhiều ca sốt rét có thông số tiểu cầu giảm rất đáng quan tâm (có thể giảm kèm theo giảm các dòng tế bào máu khác, hoặc giảm đơn thuần tiểu cầu), tuy nhiên trên lâm sàng không hề có biểu hiện hoặc được các thầy thuốc lâm sàng ghi nhận có xuất huyết da niêm hay phủ tạng sâu. Qua thực tế đi giám sát, nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị sốt rét tại các tuyến bệnh viện (từ BV tuyến trung ương đến tuyến tuyến huyện, xã) chúng tôi đã gặp hàng trăm ca có tiểu cầu giảm thấp mà vẫn biểu hiện lâm sàng bình thường. Song, điều đặc biệt các trường hợp này sau khi điều trị sốt rét chấm dứt, hoàn thành liệu trình thì thông số này ngẫu nhiên tăng lên trở lại và trở về trị số bình thường.
Chúng tôi cũng xin lưu ý với các bạn đồng nghiệp rằng, chính vì ngay lúc nhập viện các bệnh nhân có sốt đều được chỉ định công thức máu toàn phần, khi nhìn thấy tiểu cầu giảm thì phần lớn thầy thuốc nghĩ nhiều đến sốt xuất huyết (nhất là vùng dịch tễ và trong mùa dịch như hiện nay) nên đã không chỉ định tiếp tục làm ký sinh trùng sốt rét. Do đó, nhiều trường hợp bỏ sót hoặc chẩn đoán nhầm sốt rét với sốt xuất huyết . Và cứ thế, bạn biết thái độ xử trí bệnh nhân sốt xuất huyết và sốt rét có phần khác nhau nên nhiều bệnh nhân chẩn đoán sốt rét bị muộn và …tử vong không tránh khỏi. Nhân đây, chúng tôi cũng xin trình bày với bạn 2 trường hợp đã ghi nhận Suýt chết vì chẩn đoán nhầm sốt rét thành sốt xuất huyết (tác giả bài viết là bác sĩ Nguyễn Võ Hinh) đã viết và cho đăng tải: một bệnh nhân thành phố vào điều trị ở bệnh viện bị nguy kịch, suýt chết vì mắc bệnh sốt rét xác định muộn do chẩn đoán ban đầu là sốt xuất huyết. Tại thành phố Huế, thời điểm có sốt xuất huyết đang phát triển ở địa phương, bệnh nhân Hoàng Ngọc L. 46 tuổi, đến bệnh viện ngày 19/6/2010, với các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng được ghi nhận. Bác sĩ chẩn đoán sốt xuất huyết và điều trị theo bệnh sốt xuất huyết. Sau 3 ngày điều trị, bệnh có tình trạng diễn biến xấu hơn, bị sốt cao liên tục, có dấu hiệu rối loạn ý thức... Ngày 22/6/2010, các bác sĩ đã hội chẩn, thu thập thêm thông tin từ người nhà ghi nhận người bệnh làm nghề thợ cơ khí, thường có các hoạt động đi rừng, đi Lào. Một xét nghiệm cận lâm sàng được thực hiện bổ sung, kết quả lam máu phát hiện bệnh nhân bị mhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum, thể tư dưỡng, mật độ KSTSR (Ft+++). Thuốc Artesunate tiêm được sử dụng khẩn cấp theo chỉ định điều trị để đưa người bệnh ra khỏi tình trạng nguy kịch, sau đó tiếp tục sử dụng thuốc uống CV Artecan. Diễn biến bệnh khả quan hơn và sau 1 tuần điều trị, theo dõi; bệnh nhân được xuất viện.
Trường hợp này tương tự như bệnh nhân Chính, 25 tuổi, tại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 5/2010. Anh Chính sau 1 tuần đến bệnh viên tư nhân với chẩn đoán, điều trị sốt xuất huyết không khỏi; khi hôn mê mới chuyển đến Bệnh Viện Bệnh Nhiệt đới trong tình trạng quá muộn và chịu hậu quả tử vong vì bị biến chứng trầm trọng của sốt rét ác tính. Mặc dù thành phố Huế không ở trong vùng sốt rét lưu hành nhưng ở trong bối cảnh sốt xuất xuyết đang phát triển. Các bác sĩ của bệnh viện đã có sự cảnh báo tốt, giúp phát hiện, chẩn đoán bệnh sốt rét từ yếu tố dịch tễ khai thác được và điều trị bệnh sốt rét kịp thời sau khi người bệnh ban đầu được chẩn đoán và điều trị bệnh sốt xuất huyết không đáp ứng. Đây là một bài học kinh nghiệm cho các cơ sở điều trị khác cần phải cảnh giác. Trong tình hình sốt xuất huyết đang phát triển, nếu người bệnh có yếu tố dịch tễ sốt rét liên quan như đang ở hoặc qua lại vùng sốt rét lưu hành, có tiền sử mắc sốt rét trong 2 năm gần đây; bệnh nhân cần phải được xét nghiệm máu để phát hiện ký sinh trùng sốt rét một cách đầy đủ, giúp cho việc chẩn đoán sớm, điều trị bệnh kịp thời và hạn chế tử vong. Một điều các cơ sở y tế nên chú ý, quan tâm là đừng để người bệnh tử vong do chẩn đoán nhầm sốt rét với sốt xuất huyết.
Một lần nữa, chúng tôi xin chân thành cảm ơn bạn đã chia sẻ một câu hỏi mà chúng tôi suýt quên không nêu lên để các nhà điều trị cần thận trọng và cảnh giác hơn.
Nguyên M. Huynh Dan, 48 tuổi, Hố Nai, ĐT: 0169.321…
Hỏi:
Chúng tôi có một ca bệnh sốt rét rất đặc biệt, ngay khi bệnh nhân vào bệnh viện có sốt và biểu hiện nhức đầu, kèm theo đau bụng lâm râm vùng thượng vị, chán ăn, phừng mặt, buồn nôn nhưng không nôn, phổi có ít ral ẩm vùng đáy phổi (T), không khó thở. Các triệu ở các cơ quan khác không có gì đáng lưu ý. Công thức máu và nước tiểu toàn phần bình thường. Vì bệnh nhân là công nhân cao su thường xuyên bị sốt rét, (mỗi năm 2 lần), ở nhà có dùng thuốc sốt rét không rõ loại trong 4 ngày, chúng tôi cho làm xét nghiệm KSTSR kết quả giao bào Plasmodium falciparum Fg+++, chẩn đoán ban đầu xác định là sốt rét do P. falciparum và cho dùng thuốc Arterakine 3 ngày đúng, đủ liều nhưng không sạch ký sinh trùng. Bệnh nhân vẫn không cắt sốt, đến ngày thứ 5 vẫn còn giao bào P. falciparum, chúng tôi chẩn đoán sốt rét kháng thuốc và chuyển sang dùng Artesunate lọ (7 ngày) và kháng sinh Rovamycine 5 ngày. Đến ngày thứ 10, bệnh nhân hết sốt và không còn giao bào nữa. Cho phép tôi hỏi, hiện nay đã có báo cáo nào trong nước cho kết quả kháng với Arterakine chưa? tôi nghĩ phác đồ Artesunate + Rovamycine hay một kháng sinh nào cũng có thể chống kháng tốt, có đúng không?
Trả lời:
Đúng là trường hợp sốt rét trên bệnh nhân của bạn rất hay và rất đặc biệt, có thể đưa ra bàn thảo và rút kinh nghiệm cho một số đồng nghiệp khác. Tuy nhiên, bạn biết rằng trong bệnh sử thì bệnh nhân này đã dùng thuốc sốt rét trước dó không rõ loại, đã diệt hết thể vô tính đến khi đến với bạn chỉ còn lượng giao bào sinh ra cực lớn. như thế lúc nhận bệnh và nhập viện điều trị với kết quả chỉ lượng giao bào Plasmodium falciparum Fg+++ mà không có thể vô tính nào, nên về mặt hướng dẫn chẩn đoán và điều trị sốt rét thì có mặt giao bào không thể xem đây là một ca bệnh. Nên khi bạn điều trị bằng thuốc Arterakine (thành phần gồm Dihydroartemisinine + Piperaquine) vốn cơ chế tác động chỉ là diệt nhanh thể vô tính và phân liệt chứ đâu có tác dụng trên thể giao bào (chúng chỉ gián tiếp làm giảm lượng giao bào thông qua ức chế và tiêu diệt sớm thể tư dưỡng và phân liệt nhanh), nghĩa là bạn có dùng đủ 3 ngày vẫn không thể nào sạch được giao bào là phù hợp. Nên khi đó bạn có dùng Artesunate lọ hoặc kháng sinh Rovamycine cũng chỉ có giá trị diệt thể vô tính chứ đâu thể diệt giao bào.
Đến ngày thứ 10, trên bệnh nhân không còn giao bào nữa cũng là lẽ tự nhiên mà thôi theo chu kỳ sinh lý và chu kỳ sinh học của ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum. Việc ca bệnh vẫn còn sốt sau khi dùng đủ liệu trình 3 ngày với thuốc arterakine có thể do rất nhiều nguyên nhân và điều này còn được khẳng định khi bạn dùng Artesunate và Rovamycine thì cắt sốt là có thể có một nhiễm trùng đi kèm là khó tránh khỏi. Nói tóm lại, trong ca bệnh “đặc biệt” này, chúng tôi cho rằng đây không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán là ca bệnh và chỉ là người mang giao bào, có ý nghĩa có thể nguồn lây trong cộng đồng quan trọng mà thôi.
Một phần nữa bạn hỏi hiện nay có báo cáo nào trong nước có kháng thuốc Arterakine chưa? Chúng tôi xin trả lời ngay không những trong nước mà còn quốc tế cũng chưa có một báo cáo nào đề cập hay khẳng định đến Plasmodium falciparum kháng nhóm thuốc ACTs nói chung và Arterakine nói riêng. Chúng tôi cũng đã nhận được nhiều tài liều cập nhật đến năm tháng 6. 2010 vẫn chưa có cơ sở kháng ACTs. Riêng phác đồ Artesunate + Rovamycine chống kháng chúng tôi chưa thể trả lời là có hiệu lực chống kháng hay không vì chưa có công trình nào thử nghiệm nhóm này trên sốt rét, mà chỉ có các phác đồ phối hợp Artesunate/ Quinine với kháng sinh Doxycycline/Tetracycline/Azithromycine/Fosdomycine/ Clindamycine,…cho kết quả rất tốt và cụ thể khi “có vấn đề” về lựa chọn thứ nhất (first line treatment) với ACTs thì dùng lựa chọn cứu cánh là Quinine + Clindamycine hoặc Doxycycline (second line treatment) như trong hướng dẫn mới của Bộ Y tế theo quyết định 4605/QĐ-BYT ra ngày 24 tháng 11 năm 2009.
Lần nữa, xin chân thành cảm ơn bạn đã chia sẻ kinh nghiệm một trường hợp để chúng tôi có dịp chuyển tải nhiều thông tin đến đồng nghiệp khác. Chúc bạn khỏe!
Nguyen Tan Hien, 23/4/16 Phạm Văn Hai, nthien67@yahoo....
Hỏi:
Xin hỏi Ban biên tập Website chuyên ngành sốt rét của Viện sốt rét KST - CT Quy Nhơn, cho tôi hỏi rằng gần đây khi đọc các tài liệu sốt rét, liên quan đến phần điều trị sốt rét do Plasmodium vivax, tôi hay gặp cụm từ PART, không hiểu hàm ý về cái gì, xin các thầy cho tôi biết chi tiết. Kính cảm ơn quý thầy.
Trả lời:
Trước hết chúng tôi xin chân thành cảm ơn anh đã cho chúng tôi câu hỏi rất hay. Liên quan đến câu hỏi, chúng tôi xin trả lời anh như sau: đây là những cụm từ viết tắt chỉ mới sử dụng trong 5 năm trở lại đây trong các tạp chí hoặc tài liệu chính thống liên quan đến sốt rét, nhất là các tài liệu của Trung tâm CDC, Mỹ đề cập thuật ngữ này rất nhiều khi hướng dẫn điều trị sốt rét ở người do loài Plasmodium vivax và Plasmodium ovale (là những loài KSTSR ở người có điểm đặc biệt là tồn tại một số thể ngủ / thể ẩn (hypnozoites/ hibernate forms) trong gan có khả năng gây nên các cơn tái phát xa trong thời gian không ấn định (có thể vài tháng đến vài năm). Việc xuất hiện các cơn tái phát đã ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe bệnh nhân mà còn gây khó khăn trong kỹ thuật cũng như điều trị tận gốc ca bệnh đó.
Cụm thuật ngữ PART có nghĩa tiếng Anh là Presumptive Antirelapse Therapy_ viết tắt là PART và nghĩa tiếng Việt tạm dịch là liệu pháp điều trị chống tái phát xa có cơ sở khoa học hợp lý. Trong đó, các chế phẩm thuốc nhóm 8-aminoquinolein như Primaquine, là thuốc giúp tiêu diệt thể ngủ trong gan cho loài KSTSR P. ovale và P. vivax. Do đó, thuốc sẽ giúp ngăn ngừa cơn tái phát xa do các KSTSR loài này sau đó. Khi primaquine được chỉ định cùng với hoặc sau khi hoàn thành liệu trình thuốc chống thể vô tính trong máu, có thể ngăn ngừa cơn tái phát do P. vivax hay P. ovale, cách điều trị này được gọi là dự phòng cuối cùng hay liệu pháp chống tái phát có cơ sở hợp lý (presumptive antirelapse therapy_PART). Primaquine sử dụng đồng thời với thuốc diệt thể vô tính trên các bệnh nhân nhiễm sốt rét do P. vivax hoặc P. ovale gọi là điều trị tiệt căn/ tận gốc. PART và điều trị tận gốc (radical cure) hiện đang là chiến lược để ngăn ngừa tình trạng tái phát của P. vivax và P. ovale tốt nhất trong bệnh sốt rét và chương trình PCSR tại các quốc gia có lưu hành sốt rét.
Trung tâm phòng chống bệnh tật Mỹ (CDC, USA) khuyến cáo liều Primaquine phosphate là 30mg (base) bằng đường uống mỗi ngày trong 14 ngày. Primaquine bị chống chỉ định dùng trong thời gian mang thai và đang cho con bú vì chúng đi qua nhau thai và gây nên tan máu do thiếu men G6PDH ở phôi thai. Vì nguy cơ tan máu do Primaquine, nên các bệnh nhân phải được sàng lọc tình trạng thiếu men G6PDH trước khi điều trị. Đối với trường hợp thiếu men G6PDH, lựa chọn điều trị triệt để nên xem xét và tư vấn với chuyên gia bệnh truyền nhiễm. Primaquine không được khuyên dùng đối với PART ở người thiếu men G6PDH.
Hy vọng với phần trả lời trên của chúng tôi, anh sẽ có thêm tài liệu tham khảo về chuyên ngành sốt rét. Chúc anh và gia đình khỏe!
Huynh T. Da Uyen, 48 tuổi, bộ phận ký sinh trùng-vi nấm, đại học …
Hỏi:
Có thể là suy nghĩ chủ quan của tôi với tư cách là một người làm công tác thú y lâu năm, nay chuyển sang công tác chuyên ngành ký sinh trùng ở người, tôi đã đọc quá nhiều tài liệu về chuyên ngành của Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn, mà lại rất cập nhật, rất mới nữa chứ không như trang tin điện tử của các Viện ở trong nước. Tuy nhiên, vừa được giao trọng trách về chuyên khoa ký sinh trùng-vi nấm, nên tôi rất muốn sở hữu các lam mẫu bệnh phẩm về ký sinh trùng, nấm, vi khuẩn,…chuẩn mà lại không biết đặt mua ở đâu để phục vụ chuyên môn trong khoa và phục vụ công tác giảng dạy nữa. Xin các anh chị đồng nghiệp cho tôi biết nơi để đặt mua. Xin cảm ơn rất nhiều!
Trả lời:
Trước hết, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn chị về trang tin của viện với nhưng thông tin như thể tài liệu tham khảo của chị thời gian qua. Với câu hỏi của bạn, chúng tôi xin trả lời cùng nội dung với câu hỏi của bạn L.Diên Khánh tại Đại học Cần Thơ mà nội dung câu hỏi đề cập với chúng tôi cách nay gần 2 tháng. Bạn quan tâm đến các hình ảnh minh họa cũng như các slides bệnh phẩm của ký sinh trùng, vi khuẩn, virus. Chúng tôi xin giới thiệu với bạn một địa chỉ đáng tin cậy và đã được nhiều Trung tâm hay trường đại học có đào tạo trong nước và quốc tế đặt mua sildes ở đây để hỗ trợ cho công tác giảng dạy chuyên ngành cho sinh viên y khoa, học viên sau đại học rất tốt nhiều năm qua. Địa chỉ gởi tin bạn có thể liên hệ với “Post - P.O Box 136, Mt Druitt N.S.W 2770 Australia”, giá cả bao gồm GST và cước vận chuyển nơi này sẽ cung cấp cho bạn rất rõ ràng mọi chi phí và thời gian gởi đến thông qua Trung tâm Medical and Science Media ship worldwide.
Phần này gồm có một bộ 5 slide về vi khuẩn và ký sinh trùng. Chúng được làm trên các slide chất lượng tốt nhất, thuốc nhuộm tốt nhất, kích thước 26 x 76mm (1" x 3") theo quy định tiêu chuẩn khoa học. Đó là các thành phẩm mà các nhà khoa học tích lũy trong một thời gian dài kết hợp với sự tiến bộ của các kỹ thuật mới. Các slide có thể mua cho riêng mình hoặc mua cho đơn vị đều có thể được, bạn có thể truy cập vào cụm từ “Bacteriology and Parasitology systematic slide list”. Các vấn đề khác liên quan đến kỹ thuật làm lam tiêu bản hoặc làm riêng cho từng bệnh phẩm (mủ, máu, dịch,…).
Các sản phẩm này có thể mua được kèm theo các phiên bản gốc liên quan đến mẫu, vì lý do này mà thường họ chỉ “sản xuất” theo đơn đặt hàng một lượng nhỏ vì còn tùy thuộc vào tuổi thọ của từng bệnh phẩm và vi sinh vật theo thời gian sử dụng. Cần chú các khâu bảo hành trong vận chuyển và chuyển hàng cũng là một vấn đề cần lưu ý. Khi đặt hàng và chuyển khoản hoàn tất, bạn sẽ được chuyển hàng, điểm đặt biệt là cơ sở này sẽ làm theo đơn đặt hàng của bạn theo kích cỡ cũng như màu sắc của các mô, hoặc bệnh phẩm bạn yêu cầu theo từng màu sắc cũng khác nhau. Khi vận chuyển, họ sẽ đặt các slide này vào trong hộp chuyên dụng bằng chất liệu gỗ cứng và vận chuyển đến tay bạn rất cẩn thận.
Về mặt chuyển hàng, vì đây là các slide bao gồm các lam đặc biệt và thường quy, nên có quy cách vận chuyển riêng và thời gian vận chuyển trung bình thường rất chính xác. Các bộ slide nhỏ, thời gian giao hàng khoảng 3 - 4 tuần, bộ lớn là 4 - 6 tuần, đôi khi bộ lớn có các lam đặc biệt theo yêu cầu phải mất đến 6 - 8 tuần. Về giá (tính theo đô la Mỹ), đối với tác nhân vi khuẩn (Pathogenic bacteria) sinh bệnh, gồm có 25 slides trong một bộ nhỏ hoặc nhiều trong bộ lớn (50 slides) và giá thành 470 USD, giá thành bộ nhỏ là 290 USD.
Trong bộ slide có đề cập phần lớn các loại vi khuẩn gây bệnh (có kèm theo bệnh phẩm)
·Staphylococcus aureus, pus organism
·Sarcina lutea, chromogenic rods
·Streptococcus pyogenes, pus organism
·Bacillus subtilis, hay bacillus, smear with bacilli and spores
·Streptococcus lactis, milk souring organism, short chains
·Bacillus mycoides, soil organism
·Bacillus anthracis, wool sorters disease
·Mycobacterium tuberculosis, causing tuberculosis
·Corynebacterium diphtheriae, causing diphtheria
·Bacterium erysipelatos, causing red murrain
·Rhizobium radicicola, nitrogen fixing bacteria in root nodules
·Proteus vulgaris, putrefaction
·Escherichia coli, colon bacteria
·Eberthella typhi, causing typhoid fever
·Salmonella paratyphi, causing paratyphoid fever
·Vibrio comma, Asiatic cholera
·Shigella dysenteriae, bacillary dysentery
·Hemophilus influenzae, Pfeiffer bacillus
·Spirillum volutans, from putrid water
·Rhodospirillum rubrum, chromogenic spirilli
·Clostridium botulinum (botulism), causing food poisoning, smear
·Spirochaeta duttoni (Borrelia recurrentis), in blood smear
·Bacteria from mouth, smear with Gram positive and negative rods
·Bacteria from bread
·Bacteria from cheese
Spherical bacteria, cocci
·Diplococcus pneumoniae, causing croupous pneumonia, smear
·Gaffkya tetragena, occurring as tetrads, smear
·Neisseria gonorrhoeae, causing gonorrhoea, smear *
·Neisseria meningitidis (intracellularis), causing epidemic meningitidis, smear from culture
·Sarcina lutea, chromogenic rods occurring in packets
·Staphylococcus aureus, pus organism, smear from culture
·Streptococcus pyogenes, smear from culture showing short chains
·Streptococcus lactis, milk souring organism, smear from culture showing short chains
Rod-shaped bacteria, non spore-forming, gram-positive
·Corynebacterium diphtheriae, smear from culture
·Lactobacillus bulgaricus (Thermobacterium), Yoghurt bacteria (Bulgarian soured milk), from culture
·Mycobacterium leprae, causing leprosy, smear or tissue section
·Mycobacterium tuberculosis, smear from positive sputum stained after Ziehl-Neelsen
Rod-shaped bacteria, non spore-forming, gram-negative
·Acetobacter aceti, manufacture of vinegar, smear
·Azotobacter, rods from soil, smear
·Bacterium erysipelatos (Erysipelothrix rhusiopathiae), smear
·Bacterium prodigiosum (Serratia marcescens), formation of red pigment, smear
·Brucella abortus, causing abortation in cattle (Bang disease), smear
·Eberthella typhi, causing typhoid fever, smear
·Escherichia coli, colon bacteria, smear
·Hemophilus influenzae (Pfeiffer), smear
·Klebsiella pneumoniae (Friedlander), causing pneumonia smear
·Pasteurella pestis, bubonic plague, smear
·Proteus vulgaris, putrefaction, smear from culture
·Rhizobium radicicola, smear from culture
·Rhizobium radicicola, nitrogen fixing organisms, section through root nodule of lupin showing bacteria in situ
·Salmonella enteritidis, causes meat poisoning, smear
·Salmonella paratyphi, paratyphoid fever, smear
·Shigella dysenteriae, causes bacillary dysentery, smear
·Rod-shaped bacteria, spore-forming (bacilli)
·Bacillus anthracis, smear from culture
·Bacillus mycoides, large soil organisms growing in chains
·Bacillus subtilis, hay bacillus, smear showing bacilli and spores doubly stained
·Clostridium botulinum, causing food poisoning, smear
·Clostridium perfringens, causing gas gangrene, smear
·Clostridium tetani, causing lockjaw, smear
Spiral bacteria and spirochaetes
·Vibrio comma, causing Asiatic cholera, smear
·Spirillum volutans, a very large spirillum, smear
·Rhodospirillum rubrum, chromogenic rods, smear
·Borrelia duttoni (Spirochaeta recurrentis), causes Central African relapsing fever, blood smear with organisms
Miscellaneous groups
·Actinomyces alni, sec. of root nodule showing mycorrhiza of alder
·Sphaerotilus natans, from putrid water, long chains with sheaths
·Methanobacterium, forming methane, smear
·Streptomyces griseus, streptomycin antibiotic, smear
·Bacteria from mouth, Gram positive and negative bacteria can be observed in this slide, ideal for demonstration
·Bacteria from sauerkraut, smear
·Bacteria from cheese, smear or section
·Bacteria from human intestine, smear
Cytological slides, special staining techniques
·Typical mixed bacteria, including Gram-positive and Gram-negative rods, smear
·Monotrichous flagella on Vibrio or Pseudomonas, specially stained *
·Peritrichous flagella on Salmonella or Proteus, specially stained
·Nuclear stain (Bacillus cereus), smear specially stained for nuclear material (DNA)
Đối với bộ slides liên quan đến ký sinh trùng và đơn bào cũng có bộ nhỏ gồm 25 slides (giá 320 USD) và bộ lớn (giá 550USD) gồm 50 slides.
·Entamoeba histolytica, amebic dysentery, smear or section
·Leishmania donovani, causes Kala-Azar, smear or section
·Trypanosoma gambiense, Central African sleeping disease, blood smear
·Trypanosoma cruzi, Chagas disease, blood smear
·Plasmodium falciparum, human malaria, blood smear with typical ring stages
·Plasmodium berghei, malaria in rodents, blood smear with vegetative forms and schizogony stages
·Plasmodium sp., malaria melanemia in human spleen, sec. showing pigment granules in endothelium
·Toxoplasma gondii, causing toxoplasmosis, smear or section of cyst
·Babesia canis, blood smear shows very heavy infection
·Sarcocystis sp., section of muscle showing the parasites in Miescher’s tubes
·Nosema apis, honey bee dysentery, t.s. of diseased bee intestine
·Monocystis agilis, from earthworm seminal vesicle
·Eimeria stiedae, causes coccidiosis in rabbit liver, t.s. shows parasites in all stages
·Fasciola hepatica, beef liver fluke, w.m. of adult flat mount and carefully stained
·Fasciola hepatica, typical t.s. of body in different regions
·Fasciola hepatica, ova w.m.
·Fasciola hepatica, miracidia w.m.
·Schistosoma mansoni, bilharziosis, adult male or female w.m.
·Schistosoma mansoni, section of infected snail liver showing redia and cercaria
·Schistosoma mansoni, ova in faeces
·Taenia or Moniezia, tapeworm, scolex w.m.
·Taenia pisiformis, dwarf tapeworm, mature proglottids w.m.
·Taenia saginata, tapeworm, proglottids in different stages t.s.
·Taenia saginata, tapeworm, ova in faeces w.m.
·Hymenolepis nana, proglottids w.m.
·Echinococcus granulosus, dog tapeworm, scolices from cyst w.m. showing hooklets
·Echinococcus granulosus, cyst wall and scolices sec.
·Ascaris lumbricoides, roundworm of human, adult female t.s. in region of gonads
·Ascaris lumbricoides, adult male t.s. in region of gonads
·Ascaris lumbricoides, ova from faeces w.m.
·Enterobius vermicularis (Oxyuris), pin worm, adult specimen w.m.
·Trichinella spiralis, muscle with encysted larvae l.s.
·Ancylostoma, hookworm, adult male or female w.m.
·Trichuris trichiura, whip worm, ova from faeces w.m.
·Strongyloides stercoralis, larvae w.m.
·Heterakis spumosa, intestinal parasite of rat, adult male or female
·Ixodes sp., tick, adult w.m. Carrier of relapsing fever and borreliosis
·Dermanyssus gallinae, chicken mite w.m.
·Acarapis woodi, varroa, parasitic mite of honey bee, w.m.
·Sarcoptes scabiei (Acarus siro), section of diseased skin with parasites
·Stomoxys calcitrans, stable fly, piercing sucking mouth parts w.m.
·Anopheles, malaria mosquito, head and mouth parts of female w.m.
·Culex pipiens, common mosquito, head and mouth parts of female w.m.
·Anopheles, malaria mosquito, larva w.m.
·Culex pipiens, common mosquito, larva w.m.
·Culex pipiens, common mosquito, pupa w.m.
·Cimex lectularius, bed bug, w.m.
·Pediculus humanus, human louse, w.m.
·Pediculus humanus, louse eggs attached to the hair, w.m.
·Ctenocephalus canis, dog flea, adult w.m.
Bộ nhỏ gồm các loài ký sinh trùng và đơn bào sau đây:
·Trypanosoma gambiense, Central African sleeping disease, blood smear
·Plasmodium berghei, malaria in rodents, blood smear with vegetative forms & schizogony stages
·Sarcocystis sp., section of muscle showing the parasites in Miescher’s tubes
·Nosema apis, honey bee dysentery, t.s. of diseased bee intestine
·Eimeria stiedae, causes coocidiosis in rabbit liver, t.s. shows parasites in all stages
·Fasciola hepatica, beef liver fluke, w.m. of adult flat mount and carefully stained
·Fasciola hepatica, ova w.m.
·Taenia or Moniezia, tapeworm, scolex w.m.
·Taenia pisiformis, dog tapeworm, mature proglottids w.m.
·Taenia saginata, tapeworm, proglottids in different stages t.s.
·Hymenolepis nana, dwarf tapeworm, proglottids w.m.
·Echinococcus granulosus, cyst wall and scolices sec.
·Ascaris lumbricoides, roundworm of human, adult female t.s. in region of gonads
·Ascaris lumbricoides, ova from faeces w.m.
·Enterobius vermicularis (Oxyuris), pin worm, adult specimen w.m.
·Trichinella spiralis, muscle with encysted larvae l.s.
·Ixodes sp., tick, adult w.m. Carrier of relapsing fever and borreliosis
·Dermanyssus gallinae, chicken mite w.m.
·Acarapis woodi, varroa, parasitic mite of honey bee, w.m.
·Sarcoptes scabiei (Acarus siro), section of diseased skin with parasites
·Anopheles, malaria mosquito, head and mouth parts of female w.m.
·Culex pipiens, common mosquito, head and mouth parts of female w.m.
·Cimex lectularius, bed bug, w.m.
·Pediculus humanus, human louse, w.m.
·Ctenocephalus canis, dog flea, adult w.m.
Trương T. Anh, TTQY2, Thành phố Hồ Chí Minh, 0982 154….
Hỏi:
Gần đây em thấy rất nhiều báo chí nêu lên các bệnh nhiệt đới bị lãng quên, nghe có vẻ hay hay nhưng không biết người dịch có đúng không? Xin hỏi các thày cô và anh chi cho em biết các bệnh truyền nhiễm đang bị lãng quên và dịch từ nguyên gốc tiếng nước ngoài là gì mà người ta đang quân tâm trên thế giới là những bệnh gì, em rất cảm ơn!
Trả lời:
Cảm ơn em đã nhắc lại cho chúng tôi một số căn bệnh mà sắp bị lãng quên rồi đó. Liên quan đến câu hỏi của em về gốc từ của cụm từ “Các bệnh nhiệt đới bị lãng quên” theo chúng tôi biết là hoàn toàn đúng, được dịch nguyên gốc cụm từ tiếng Anh “Neglected Tropical Diseases” viết tắt là NTDs. Hiện các bệnh này không những được Tổ chức Y tế thế giới quan tâm mà còn cộng đồng cũng quan tâm rất nhiều và rất quan ngại sự bùng phát các bệnh này nếu chẳng may xảy ra.
Danh mục các bệnh nhiệt đới bị lãng quên đang được tập trung giải quyết (theo tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới ra ấn bản ngày 23 tháng 12 năm 2009 với tên nguyên bản là “Neglected Tropical Diseases - Negleted tropical diseases, hidden successes, Emerging opportunities) gồm có: bệnh loét Buruli, bệnh Chagas, bệnh sốt xuất huyết, bệnh giun chỉ Drancunliasis, bệnh Trupanosomiasis châu Phi, bệnh Leishmaniasis, bệnh phong, bệnh giun chỉ bạch huyết, bệnh giun chỉ onchocerciasis, bệnh sán máng, bệnh giun truyền qua đất, bệnh mắt hột, bệnh truyền từ động vật sang người.
Tại nhiều vùng khác nhau hoặc vùng lãnh thổ khác nhau, có thể chỉ có một bệnh duy nhất, óc thể cùng lúc có, 3 hoặc có nơi lên đến 4 bệnh đồng nhiễm cùng lúc trên một vùng địa lý nhất định (xem bản đồ dưới đây có phân biệt rõ màu sắc từng vùng để đánh giá). Sắp đến, năm 2011 sẽ diễn ra một hội nghị quốc tế đề cập đến các bệnh nhiệt đới bị lãng quên với tiên viết tắt hội nghị là ISID-NTDs (International Society for Infectious Diseases - Neglected Tropical Diseases) tổ chức tại Boston, Massachusetts, Mỹ vào tháng 7, năm 2011. Biết bạn quan tâm, bạn có thể truy cập lấy thông tin về kiến chức, thông tin mới liên quan đến các căn bệnh này ở tại các hội nghị tương tự như thế của những năm trước nhé.
Lan Anh- anhdl@vietglobe.com.vn- Vu Ngoc Phan - Ha noi
Hỏi:
Tôi có người bạn ở Đức sắp sang Việt Nam công tác khoảng 1 tuần. Anh ta lo ngại về việc có thể bị nhiễm sốt rét và muốn phòng ngừa. Câu hỏi của anh ấy là VN có loại muỗi nào đặc biệt anh ta cần biết để phòng ngừa không? vì thuốc chống sốt rét thay đổi phụ thuộc vào loại muỗi. Tôi không biết gì về lĩnh vực này nên rất mong sẽ được tư vấn để trả lời cho anh bạn này. Cảm ơn nhiều! Nguyên văn câu hỏi của anh Tây này “Is there any special mosquito in Vietnam to which I should be prevented to? Because the anti-malarial drugs can vary depending on the mosquito type”?
Trả lời:
Cảm ơn bạn về câu hỏi, anh bạn người Đức của bạn sắp sang Việt Nam công tác, song không biết công tác ở địa phương nào và vùng nào trong vòng một tuần. Do vậy đây cũng là vấn đề chúng tôi cần quan tâm để trả lời thấu đáo hơn cho bạn. Việt Nam là một trong những quốc gia nhiệt đới có lưu hành sốt rét, tuy nhiên không phải ở đâu tại Việt Nam cũng có muỗi sốt rét để truyền bệnh sốt rét nên không nên lo lắng lắm mà còn tùy thuộc vùng anh bạn chị định làm việc đó có sốt rét lưu hành hay không. Không những thế, chị cũng nên thông báo cho bạn biết hiện nay Việt Nam vừa có sốt xuất huyết (gần như đang có mặt khắp các tỉnh thành) vừa có cả sốt rét nên cả 2 bênh này người đó cần phải quan tâm để chuẩn bị các biện pháp phòng tránh.
Riêng khía cạnh câu hỏi thuốc sốt rét có thể thay đổi tùy thuộc vào loại muỗi là chưa đúng, mà phải chỉnh lại là thuốc sốt rét dùng thay đổi tùy thuộc vào mục đích sử dụng, giai đoạn ký sinh trùng sốt rét đang hiện hữu trong cơ thể, vùng sốt rét đó có kháng thuốc loại nào không,…để có kế hoạch thay đổi thuốc cho phù hợp. Để nắm được thông tin và tránh được rào cản trong ngôn ngữ giải thích toàn ý cũng như bạn của chị có thể áp dụng các biện pháp thích hợp để phòng bệnh, chúng tôi khuyên anh bạn của chị trước khi đến công tác tại Việt Nam hay quốc gia nào khác thì nên đến các Văn phòng tư vấn sức khỏe du lịch dành riêng cho những người sắp sang quốc gia khác để du lịch hoặc công tác khác nhau để nhận các thông tin cần thiết và được tư vấn một cách rõ ràng hơn về phòng bệnh sốt rét. Vì theo chúng tôi biết, tại các quốc gia tiên tiến ngay cả Đức đều có Văn phòng tư vấn sức khỏe du lịch đi kèm (Travel Health agent, Health Traveller post,…) luôn luôn tư vấn cho bất cứ ai chuẩn bị đi sang các quốc gia khác.
Hoặc chị có thể giới thiệu cho bạn chị đọc tâp tài liệu mới nhất liên quan đến sức khỏe du lịch, trong đó đề cập hầu hết các bệnh dịch tại các quốc gia, chúng tôi cho rằng rất hữu ích cho mọi người sắp đi sang quốc gia khác, tên tập tài liệu là: WHO International Travel and Health, 2010 (tài liệu này của Tổ chức Y tế thế giới) hoặc cuốn International Health & Medical Insurance, của CDC, Mỹ. Xin gởi lời chúc sức khỏe đến chị và bạn của chị sắp sang Việt Nam khỏe mạnh và có những ngày làm việc tại Việt Nam thật ấn tượng.
Nguyen Thi Nhu-nhudoan2002@yahoo.com- 246 Nguyen Van Cu, BMT
Hỏi:
Me toi va em gai toi bị giun dau gai và toi di xet nghiem, cung phat hien bi nhiem giun dau gai (duong tinh Gnathostoma 0.42 OD) va bac si ke toa cho toi uong 2 vien egaten 250mg, uong vao sang va toi. Toi khong biet thuoc nay co phai dung de dac tri Gnathostoma không?
Trả lời:
Trước hết chúng tôi xin chỉa sẻ với bạn thông tin về bệnh giun đầu gai và việc đi xét nghiệm nghiễm giun đầu gai qua chỉ một xét nghiệm ELISA (trong khi các triệu chứng khác trên cơ thể thì không có) quả là một vấn đề cần cân nhắc. Nghĩa là nhiễm bệnh giun đầu gai - Gnathostoma spp (+)và đây có phải là nguyên do dẫn đến bạn lo lắng không. Vì giun đầu gai cũng là một loại giun tròn (nematode), nên chúng tôi xin trả lời rằng xét nghiệm Gnathostoma spp (+) không hẳn là luôn luôn bệnh vì có thể phản ứng chéo với một số loại giun tròn đường ruột khác hoặc đây chỉ là dương tính giả, trước khi xác định bạn và người thân của bạn thật sự có mắc bệnh hay không thì phải hội đủ nhiều yếu tố:
[1] Trên lâm sàng có triệu chứng của hệ thần kinh hay không (nhức đầu, yếu liệt, sợ ánh sáng, …), triệu chứng tiêu hóa (đau bụng, buồn nôn, nôn mửa, đặc biệt đau vùng thượng vị và hố chậu phải), triệu chứng hô hấp (ho, khó thở, hắt xì, ngứa họng, tràn dịch hay tràn khí màng phổi,…), triệu chứng ngoài da, niêm mạc (có vết ban trườn, nổi u, cục, ban đỏ từng đợt, ngứa, dị cảm, khó chịu),…
[2] Công thức máu có số bạch cầu chung tăng cao, tăng lượng bạch cầu ái toan ý nghĩa;
[3] Phản ứng ELISA với Gnathostoma spp hay Gnathostoma spinigerum dương tính với hiệu giá tham chiếu.
Liên quan đến xét nghiệm của bạn và người thân, chúng tôi biết với ngưỡng hiệu giá kháng thể OD > 1.0 mới là dương tính bệnh, còn tất cả trị số OD dương tính với ngưỡng < 1 thì bạn cũng nên cân nhắc vì khi đó có thể trong khoảng nghi ngờ hoặc dương tính giả mà thôi. Do đó, nếu chỉ dựa trên xét nghiệm đơn thuần như thế, chưa chắc là bạn bị giun đầu gai nhé. Trước khi bạn uống thuốc điều trị, bạn nên nhận lời tư vấn từ bác sĩ chuyên khoa ký sinh trùng để liệu xem bạn có bệnh giun đầu gai không? (tức là có đủ 3 điều kiện trên không?) Vì có nhiều khía cạnh tế nhị cần xem xét: thứ nhất, với thực hành lâm sàng hàng ngày hiện tại chúng tôi nhận thấy bệnh nhân đi xét nghiệm thấy dương tính (mặc dù không hề có triệu chứng gì) thì họ rất mong được điều trị, thậm chí nằng nặc đòi điều trị và bác sĩ thì cũng cân nhắc, đôi khi vì lợi nhuận trước mắc lại kê đơn, bán thuốc cho bệnh nhân điều trị trong thời gian dài, có khi đến 3-4 đợt nhưng thực tế kết quả dương tính vẫn dương tính; thứ hai, hiện tại thuốc điều trị giun đầu gai chưa có thuốc đặc hiệu, các nàh điều trị thường dùng liệu pháp thay thế bằng thuốc Albendazole, dùng liều cao và dài ngày (800mg/ ngày và keo dài 21- 28 ngày), có thể gây độc tính cho bạn, nhất là độc tính mạn tính, kéo dài khá nguy hiểm. Chúng tôi đã gặp nhiều bệnh nhân uống đến 126 - 168 viên Albendazole 400mg (nghĩa là 3-4 đợt) vẫn không hết bệnh vì đó là bệnh khác chứ không phải là giun đầu gai (!?). Về hiệu quả điều trị của Albendazole với bệnh giun đầu gai với liệu trình 21 ngày như trên, qua nhiều kết quả nghiên cứu cho hiệu quả 85 - 92%, có nghĩa là không phải trường hợp nào cũng hết.
Quay trở lại với thuốc điều trị của bác sĩ kê toa cho bạn là Egaten 250mg (đây là một biệt dược của Triclabendazole) dùng để điều trị sán lá gan lớn (Fasciola spp.) chứ không phải dùng để trị bệnh giun đầu gai bạn nhé. Không biết với tiến bọ khoa học hiện tại, thuốc Egaten có điều trị được giun đầu gai hay không chúng tôi chưa có được thông tin nào cả.
Hy vọng, bạn đã rõ ràng với câu trả lời của chúng tôi, và bạn thật sự cân nhắc để quyết định trước khi điều trị cho gia đình bạn!
Hồ Mỹ-homy304@yahoo.com- Bà Rịa Vũng tàu
Hỏi:
Tôi là nữ - 26 tuổi, từ nhỏ không ngửi được mùi gì cả, kể cả mùi thuốc sâu, mùi hôi thối nặng...Nói chung tôi không biết thơm thối sao cả, chỉ biết là khi có mùi thối thì nghe khó chịu (nhức đầu...). Vậy xin các anh chị cho tôi hỏi lúc này tôi có thể điều trị được bệnh này không (vì tôi bị bẩm sinh), nếu không điều trị nó có ảnh hưởng gì đến các chức năng của các cơ quan khác không ?
Trả lời:
Chúng tôi rất thông cảm và chia sẻ căn bệnh khó chịu mà bạn đang gánh chịu, chúng tôi biết và đã tiếp xúc rất nhiều người có bệnh lý mất khứu giác như bạn, không phân biệt được thơm, thối và các mùi “đặc trưng” khác. Nguyên nhân khá nhiều (tai nạn, chấn thương vùng sọ não, ảnh hưởng đến cơ quan khứu giác, hoặc do lỗi dùng thuốc đường mũi thời gian dài, …khiến tổn thương cơ quan này). Hơn 85% trong số đó không thể hồi phục được mặc dù đã được điều trị bằng y học hiện đại lẫn y học cổ truyền, đông y lẫn tây y. 15% còn lại họ đã phục hồi một phần hoặc hoàn toàn sau khi châm cứu hoặc dùng thuốc co mạch liều thấp dần,…
Dù sao đi nữa, các bệnh lý như thế này thường phải nhờ hội chẩn can thiệp nhiều khoa chuyên môn, gồm có tai mũi họng, thần kinh, nội tổng quát, đông y,…mới có thể giải quyết được.
Do vậy, chúng tôi khuyên bạn nên đi khám đúng các chuyên khoa để được chỉ định điều trị và đưa ra lời khuyên đúng hướng nhất. Chúc bạn mau hồi phục.
Phạm Thị Kim Ngận-hoasimtim_dongque@yahoo.com.vn
Hỏi:
Ông xã tôi thường hay thích ăn rau sống và trước đây cũng hay ăn những món thịt, cá sống chấm bồ tat, với cách ăn uống như thế này tôi rất lo ngại và mới đây tôi có dẫn ông xã đi khám xét nghiệm ký sinh trùng và anh ấy bị nhiễm sán đầu gai với kết quả OD: 0.48 và sán đũa chó với kết quả là 0.55 OD. Bác sĩ nói tình trạng của anh nhiễm tương đối nặng và cho uống Pizar 6mg ngày 1 lần và mỗi lần 2 viên, uống trong 7 tuần.
Xin hỏi bác sĩ là sao tôi đọc trong hướng dẫn sử dụng của loại thuốc này thấy là có tác dụng mạnh đối với các loại giun: giun kim, giun đũa, giun móc và không có tác dụng trên sán lá gan và sán dây. Tôi cũng đã tìm hiểu một số thông tin trên mạng, các bác sĩ thường kê toa cho bệnh nhận uống Zentel (Albendazol 400mg 2 lần/ngày) thuốc đặc trị bệnh sán đũa chó. Như vậy thuốc mà bác sĩ đã kê toa cho chồng tôi có tác dụng đối với bệnh của chồng tôi hay không) ?
Trả lời:
Liên quan câu hỏi của bạn, chúng tôi cho rằng với kết quả xét nghiệm ELISA sán đầu gai với kết quả 0.48 OD và sán đũa chó với kết quả là OD: 0.55 thì đối chiếu với giá trị tham khảo thì đây là kết quả âm tính chứ không phải bệnh, nên không nhất thiết điều trị - đó là chưa kể đến các triệu chứng lâm sàng và trị số trong công thức máu, đặc biệt bạch cầu ái toan.
Về thuốc Pizar hay Ivermectin có nhiều biệt dược khác nhau (Stromectol, Pizar) là một trong những thuốc có tác dụng điều trị giun, sán bán tổng hợp, dùng đường uống. Ivermectin chiết suất từ Avermectin - một lớp có phổ tác động cao, tác nhân chống ký sinh trùng phân lập từ các sản phẩm lên men của Streptomyces avermitilis. Ivermectin là một hợp chất chứa ít nhất 90% 5-O demethyl-22,23-dihydroavermectin A1a và < 10% chất 5-O-demethyl-25-de(1-methylpropyl)-22,23-dihydro-25-(1-methylethyl)avermectin A1a, xem lần lượt như là 22,23-dihydroavermectin B1a and B1b, hoặc H2B1a và H2B1b. The respective empirical formulas are C48H74O14 and C47H72O14, với trọng lượng phân tử lần lượt là 875.10 và 861.07. Ivermectin là một chất một màu vàng trắng, không hygroscopic, bọt tinh thể với điểm nóng chảy là 155°C. Thuốc này không thể hòa tan trong nước nhưng hòa tan tự do trong methanol và trong ethanol 95%. Thuốc này cũng được chỉ định để điều trị nhiều loại giun sán khác nhau, trong đó có giun đầu gai. Liều người lớn, đường uống. Với bệnh giun chỉ Onchocerciasis ≥15 kg: 150 mcg/kg liều duy nhất, mỗi 6 - 12 tháng thì giun trưởng thành chết. Đối với giun lươn Strongyloidiasis liều 200 mcg/kg liều duy nhất trong 1 -2 ngày. Đối với giun chỉ Filariasis Mansonella streptocerca liều duy nhất 150 mcg/kg; Mansonella ozzardi liều duy nhất là 200 mcg/kg, giun đũa Ascaris lumbricoides, liều duy nhất là 150 - 200 mcg/kg. Bệnh giun đầu gai do Gnathostoma spinigerum liều 200 mcg/kg 1 lần mỗi ngày trong 2 ngày; bệnh ghẻ Sarcoptes scabiei liều dùng 200 mcg/kg liều duy nhất, lặp lại trong vòng 2 tuần. Riêng toa thuốc của bạn, chỉ định dùng trong 7 tuần thì chúng tôi chưa thấy hướng dẫn nào như vậy.
Đề cập đến nhiễm “giun đũa chó”, xin đính chính lại vì không phải “sán đầu chó” như bạn nghĩ. Thuốc sử dụng hiện nay thường dùng và đặc hiệu là Thiabendazole, nếu không có thuốc này thì dùng Albendazole hoặc Mebendazole thay thế, nhưng liệu trình liều cao và kéo dài ngày hơn rất nhiều.
Tên đây là chu kỳ sinh học của giun chỉ O. volvulus, một căn bệnh cũng được điều trị bằng thuốc Pizar tại châu Phi khá nhiều và phổ biến.
Nguyễn Thành Nam - thanhnam249@gmail.com
Hỏi:
Xin bác sỹ chỉ giùm cách xử lý trong trường hợp này: Nhà tôi mới ăn thịt bò tái buổi trưa. Đến buổi tối khi thái tiếp miếng thịt bò sống buổi trưa phát hiện ra trong thịt bò có sán (hình hạt gạo). Tôi có thể làm gì ngay để ngăn chặn sự phát triển của sán không ? Cảm ơn bác sĩ !
Trả lời:
Liên quan đến câu hỏi của bạn, chúng tôi thấy rằng câu hỏi này “quá khó” trả lời ngay vì mơi ăn buổi trưa, chiều phát hiện ra là trong miếng thịt có sán, quả thật trong một thời gian rất ngắn thì làm sao xác định chắc chắn nhà bạn xã bạn có thể bị hay không mà ngăn chặn nhỉ. Chúng tôi biết bạn đang rất lo lắng, song chỉ khuyên bạn một điều rằng không phải ai đã có lần phơi nhiễm với tác nhân gây bệnh (cụ thể ở đây là phần thịt có nhiễm sán) đều có thể bị bệnh, nghĩa là chồng bạn có thể phát triển thành bệnh hoặc không, nghĩa là còn tùy thuộc nhiều yếu tố (cơ địa, lượng sán, độc lực, thời gian nhiễm bệnh,…) chứ không nhất thiết là bị ngay bạn ạ. Để biết thêm chi tiết về thông tin bệnh và khả năng nhiễm bệnh của loại sán dây này, bạn có thể truy cập vào trang website của Viện Sốt rét - KST - CT Quy Nhơn để truy cập nhiều tài liệu có liên quan chi tiết đến cau hỏi của chị ở mục bệnh ký sinh trùng hoặc phần hỏi đáp.
Thân chúc bạn và gia đình sức khỏe!
Trần Thị Thu-Duong _sushi@yahoo.com - Nghĩa Đàn - Nghệ An - 01685468318
Hỏi:
Con trai tôi năm nay 23 tuổi, thể trạng cháu bình thường, ăn uống tôt. Thời gian gần đây cháu rất thích ăn gạo sống. Tôi sợ là cháu bị thiếu một chất gì đó nên hỏi một số bạn bè về những băn khoăn của mình. Một số người cho rằng cháu bị nhiễm giun, sán. Tôi viết thư này kính nhờ các bác sỹ chuyên ngành tư vấn cho tôi một một lời khuyên xem có đúng vậy không? Nếu cháu bị nhiễm giun sán thì điều trị thế nào cho đúng và nên đưa cháu đi khám ở đâu? Rất mong được sự phúc đáp của các BS.
Trả lời:
Quả thật, cảm ơn chị rất nhiều về một câu hỏi thú vị đối với chúng tôi. Trước tiên kính chúc gia đình chị và cháu ngày càng khỏe mạnh và thành đạt. Liên quan đến câu hỏi của chị về vấn đề gần đây con trai chị (23 tuổi) thích ăn gạo sống và được một số bạn bè mách là có thể do nhiễm giun sán. Theo những kiến thức thu nhận từ chúng tôi đến thời điểm này, có thể là chưa thể trả lời thỏa đáng cho bạn được, song dù sao cũng xin chia sẻ cho chị và gia đình một số thông tin như sau: trong y học và trong thực tế thực hành lâm sàng điều trị bệnh tại các cơ sở điều trị, có nhiều người bình thường (có thể là bệnh nhân) tự nhiên đến một lúc nào đó lại thèm ăn những nhức ăn rất “kỳ lạ”, nhất là các phụ nữ mang thai con so, chẳng hạn họ thích ăn đất, ăn gạo lức, ăn ruột bánh mì,…mà vốn dĩ thường ngày lại không thích thậm chí không ăn bao giờ, sau một thời gian lại hết và trở lại bình thường. Nên con chị không biết có rơi vào tình huống này không ?
Thứ hai, liên đới giữa bệnh giun sán và thích ăn gạo sống, tôi nghĩ rằng là không liên quan thì về thức ăn nuôi sống các loại giun sán chính là các mảnh vụn tế bào, chất thối rửa, hoại tử hoặc chất dinh dưỡng mà chúng ta ăn vào (sán lá gan), hoặc các thành phần protein tiêu hóa, phân hủy rồi (các loại giun tròn),…nên trường hợp của con trai chị có thể là ngoại lệ, không thể quy kết cho sán, giun được. Để làm rõ vấn đề này, có thể chúng tôi sẽ tìm hiểu thêm về liên quan đó.
Thứ ba, để chẩn đoán và điều trị bệnh giun sán, chị có thể đưa con chị đến các cơ sở y tế chuyên khoa về ký sinh trùng như tại Viện Sốt rét KST-CT TƯ hoặc Viện Y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới quốc gia tại Hà Nội (vì nghĩ chị ở Nghệ An gần Hà Nội hơn), hoặc có thể có dịp đi vào miền Trung, chị có thể đến Viện chúng tôi hay vào phía nam có BV Bệnh nhiệt đới (thành phố Hồ Chí Minh) sẽ giúp chị chẩn đoán và điều trị tốt hơn.
Lần nữa xin kính chúc chị và gia đình khỏe!
Nguyễn Thái Bình, thientra2008@yahoo.com.vn, Hiệp Đức, Q. Nam, DĐ: 0976 012 743
Hỏi:
Kính thưa quý Bác sĩ, tôibị sán lá gan đã xét nghiệm ở BV Hoàn Mỹ Đà Nẵng. Được biết thuốc trị sán lá gan là miễn phí. Tôi có nguyện vọng được điều trị. Vậy tôi phải làm như thế nào. Và có nơi nào ở Quảng Nam điều trị bệnh sán lá gan này không. Mong quý bệnh viện chỉ dẫn. Xin cám ơn!
Trả lời:
Với câu hỏi của bạn chúng tôi xin trả lời như sau: nếu bạn thật sự bị bệnh sán lá gan (nghĩa là phải có đẩy đủ tiêu chuẩn của một ca bệnh bị sán lá gan lớn (cả tổn thương gan trên siêu âm, ELISA (+), bạch cầu ái toan tăng cao và đặc biệt có triệu chứng sán lá gan lớn,…) đã được xác định tại bệnh viện Hòan Mỹ thì bạn hãy bình tĩnh chứ không có gì lo lắng cả: đúng là trước năm 2009, thuốc điều trị sán lá gan (phần lớn) tại các cơ sở y tế đều cấp điều trị miễn phí cho bệnh nhân, bởi nguồn thuốc này được tài trợ và cấp do Tổ chức Y tế thế giới, nên điều trị không thu tiền, chỉ chi trả các khoảng viện phí, thuốc hỗ trợ,…mà thôi. Song, gần đây nguồn thuốc này được một số đơn vị điều trị mua trực tiếp từ hãng Novartis, nên thuốc điều trị phải thu tiền. Và đặc biệt giá cả điều trị loại thuốc này rất thấp so với một liều điều trị, khoảng 57.000 - 60.000 đồng/ liều điều trị duy nhất cho người lớn (giá gốc một hộp thuốc 4 viên giá khoảng 113.000 đồng). Các chi phí khác bạn phải chi trả theo quy định nhà nước.
Tại Quảng Nam, bạn có thể đến thẳng Trung tâm phòng chống sốt rét và Bướu cổ tỉnh Quảng Nam hoặc BVĐK tỉnh Quảng Nam, BVĐK khu vực bắc Quảng Nam là ở huyện Đại Lộc,…tại đó các bác sĩ có rất nhiều kinh nghiệm trong chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn cho bạn. Sớm chúc bạn khỏe và mau chóng bình phục tổn thương sán lá gan.
Trần Phi Châu - truonganhtam@gmail.com - 870/15 An Duong Vuong, p13,Q6 .tphcm
Hỏi:
Kính gửi BS em muốn hỏi là trước đây em có nổi mẩn đỏ, ngứa, sưng, rồi chỗ nổi mẩn sau2 -3 ngày thì hết ngứa và tím lại, em bị nổi nhiều nhất là ở 2 tay, 2 chân và bụng.
-19/3/2008 em có đi khám ở BV Triều An thì BS có cho em đi xét ngiệm giun:kết quả Toxocara canis dương tính 1/1600 và Gra (+) 1/800, Strong (-). BS kê toa thuốc cho em uống trong đó có Zentel 200 mg 56 viên (ngày 2 lần mỗi lần 2 viên).
-05/04/2008 em xét ngiệm lại Toxo (+) 1/400, Gra (+) 1/3200, hết nổi mẫn ngứa, bác sĩ lại cho uống Zentel 200mg, 56 viên. Em bi mẩn ngứa lại lần 2;
-23/04/08 xét ngiệm Toxo (+) 1/1600, Gra (+) 1/1600 bác sĩ cho uống Zentel 200mg 56 viên;
-10/05/2008 xét nghiệm Toxo (+) 1/3200 và Gra (+) 1/400 Bác sĩ cho uống Zentel 200mg 28v
-28/05/2008 xét nghiêm thì Toxo (+) 1/3200, Gra (+) 1/400 Bs cho uống Zentel 200mg, 28v rồi bs cho em ngưng thuốc;
-1 năm sau, xét nghiệm lại thì đến ngày 29/04/2009, kết quảToxo (+) 1/1600, Gra (-) lúc này Bs cho uống PIZAR 6mg 4v, ngày 2 lần mỗi lần 1 viên.
-14/05/2009 xét nghiệm lại thì Toxo (+) 1/1600 bs cho uống PIZAR 6mg 4v, ngày 2 lần mỗi lần 1 viên, rồi bs ngưng thuốc nói với em 6 tháng sau tái khám.
-04/09/2009 xét ngiệm Toxo vẫn dương tính 1/3200 Bs cho uống PIZAR 6mg 4v, ngày 2 lần mỗi lần 1 viên.
-3 tháng sau em tái khám và xét nghiệm lại vào ngày 21/11/2009 kết quả Toxo (+) 1/1600, đã giảm 1 nửa so vo với 3 tháng trước nhưng BS vẫn cho uống tiếp PIZAR 6mg 4v, ngày 2 lần mỗi lần 1 viên và ngưng 6 tháng tái khám;
-13/05/2010 xét nghiệm lại thì Toxo (+) 1/400 thì Bs cho uống PIZAR 6mg 4v, ngày 2 lần mỗi lần 1 viên, lúc này bs nói với em có thể là (+) giả và 6 tháng tái khám lại.
Bây giờ thì em không còn nổi mẩn ngứa nữa, trong người không còn cảm giác mệt mỏi nữa và em đã tăng được 10kg. Như vậy Bs cho em hỏi là em còn nhiễm Toxo nữa không? và em uông thuốc trị giun như thế quá nhiều đúng không ạ? Không biết là ảnh hưởng đến quá trình sinh sản của em không? Em đã lập gia đinh 3 năm nhưng bị nhiễm giun nên em không dám để mang thai. Em có hỏi BS là kết quả trị giun Toxo (+) 1/400 như vậy mà em không còn nổi mẩn ngứa gì thì có để mang thai được không và có ảnh hưởng gì đến em bé không, thì bs nói với em là mang thai được và không ảnh hưởng gì đến em bé, có thật vậy không thưa bác sĩ ? Xin BS trả lời giúp em qua địa chỉ mail. (Xin phép BS vì em đặt câu hỏi quá dài). Em xin cảm ơn BS.
Trả lời:
Trước hết chúng tôi phải nói rằng là cảm ơn bạn rất nhiều vì bệnh sử và quá trình điều trị của bạn rất chi tiết khi kể cho chúng tôi nghe trong thời gian gần 2 năm điều trị với một lượng rất lớn thuốc Albendazole (224 viên) và Pizar (20 viên) vào cơ thể bạn, nói chung thì thuốc nào cũng có độc tính cả, không ít thì nhiều. Nhưng chúng tôi cũng khuyên bạn nên bình tĩnh và an tâm rằng hiện nay bạn không còn dùng thuốc nữa nên thuốc trước đây sử dụng đã đào thải ra khỏi cơ thể trong một thời gian rất ngắn đã hết, nên không ảnh hưởng gì đến khả năng sinh sản của bạn sau này (bác sĩ của bạn đã nói đúng). Song vì bệnh sử và diễn tiến điều trị của bạn với các loại giun sán chỉ thông qua xét nghiệm dường như hơi “vội vã” vì cứ mỗi 1 tháng bạn lại đi xét một lần và cứ sau mỗi lần đó bạn lại uống thuốc tiếp tục là không nên. Vì sao như vậy, thông thường với liều ban đầu bạn sử dụng đã có thể điều trị khỏi bệnh giun sán trên người bạn rồi, nhưng để kết quả xét nghiệm giảm dần và quay trở về trị số bình thường đòi hỏi phải có thời gian dài (ít nhất 3 tháng và dài nhất có thể 24 tháng, thậm chí 36 tháng mới hết) và dùng thuốc sau mỗi lần nhận kết quả dương tính như trên là không cần thiết, cũng may là bạn chưa bị ngộ độc.
Một điểm đáng chú ý hơn là bạn có thể thấy được kết quả xét nghiệm với hiệu giá kháng thể cứ lúc này tăng, lúc kia lại xuống, liệu nó có đúng thực chất với bệnh bạn đang có không là vấn đề cần bàn ở đây? Chúng tôi xin đưa ra cho bạn 2 khía cạnh liên quan đến xét nghiệm hiện nay: [1] Xét nghiệm ELISA và diễn biến bệnh thực tại có khảng 45% không đúng với thực tế, nghĩa là không phải lúc nào dương tính cũng là bệnh và ngược lại, lúc nào âm tính cũng là không bệnh là hoàn toàn sai nhé; [2] Vấn đề xét nghiệm và diễn tiến bệnh, thực hay ảo vẫn còn chưa thỏa hiệp. Do đó, chúng tôi chỉ khuyên bạn một điều, khi mắc phải bệnh gì nên đến chuyên khoa để tham vấn, chẩn đoán và điều trị cũng như họ đưa ra các lời khuyên hợp lý cho bạn.
Nói tóm lại, hiện tình trạng của bạn đã hồi phục, bạn có thể mang thai được và không có gì lo ngại khi lượng thuốc còn tồn hay diễn biến bệnh đang có. Thân chúc bạn khỏe!
Hồng Diễm-sunny_gsn@yahoo.com-308 Bà Hạt, Q.10, HCM
Hỏi:
Hiện nay tôi có thai hơn một tháng, khi xét nghiệm tôi bị nhiễm Gnathostoma spinigerum, tôi rất lo lắng không biết có ảnh hưởng gì đến thai nhi không? Tôi có tham khảo trên website của Viện thấy có 3 trường hợp đã được báo cáo lây truyền qua phôi thai (tử cung). Bây giờ tôi phải điều trị như thế nào? Hay đợi sau khi sinh xong mới điều trị, như vậy em bé có ảnh hưởng gì không? Rất mong được tư vấn, xin chân thành cảm ơn.
Trả lời:
Trước hết chúng tôi xin cảm thông với băn khoăn, lo lắng của chị khi mang thai mà đi xét nghiệm có kết quả Gnathostoma spinigerum dương tính, mà cũng không biết giá trị dương tính là bao nhiêu. Chị nên nhớ rằng hiện nay khía cạnh xét nghiệm ELISA chẩn đoán các bệnh ký sinh trùng nói chung và giun đầu gai nói riêng rất “loạn”, không những loạn về chất lượng mag cả số lượng nữa, kể cả bác sĩ và người xét nghiệm viên đôi khi lạm dụng xét nghiệm mà cho thuốc bệnh nhân một cách không cần thiết chị ạ. Tuy nhiên, chúng tôi không được biết là chị có triệu chứng gì xuất hiện trên cơ thể hay xét nghiệm này chỉ là do đi kiểm tra sức khỏe tình cờ mà thấy dương tính, mặt khác chị cũng không cho chúng tôi biết các kết quả xét nghiệm khác (như công thức máu toàn phần như thế nào) hoặc thói quen ăn uống của chị,…để giúp cho việc tư vấn của chúng tôi thấu đáo hơn.
Do giun đầu gai cũng là một loại giun tròn, nên xét nghiệm Gnathostoma spp (+) không hẳn là luôn luôn bệnh vì có thể phản ứng chéo với một số loại giun tròn đường ruột khác hoặc đây chỉ là dương tính giả (thực tế tỷ lệ này tương đối), trước khi xác định chị có mắc bệnh hay không thì phải hội đủ nhiều yếu tố:
[1] Trên lâm sàng có triệu chứng của hệ thần kinh hay không (nhức đầu, yếu liệt, sợ ánh sáng, …), triệu chứng tiêu hóa (đau bụng, buồn nôn, nôn mửa, đặc biệt đau vùng thượng vị và hố chậu phải), triệu chứng hô hấp (ho, khó thở, hắt xì, ngứa họng, tràn dịch hay tràn khí màng phổi,…), triệu chứng ngoài da, niêm mạc (có vết ban trườn, nổi u, cục, ban đỏ từng đợt, ngứa, dị cảm, khó chịu),…
[2] Công thức máu có số bạch cầu chung tăng cao, tăng lượng bạch cầu ái toan ý nghĩa;
[3] Phản ứng ELISA với Gnathostoma spp hay Gnathostoma spinigerum dương tính với hiệu giá tham chiếu.
Trên thế giới có rất nhiều báo cáo liên quan đến bệnh ký sinh trùng lây truyền qua nhau thai, trong đó có cả giun đầu gai, nhưng không phải tất cả người mẹ nào bị cũng truyền qua nhau thai, nên bạn đừng lo lắng thái quá không nên, điều đó có thể ảnh hưởng đến thai nhi của chị không tốt. Các thuốc điều trị giun sán đều chống chỉ định trong thời gian mang thai, trừ khi bệnh quá nặng thì các thầy thuốc mới quyết định điều trị, còn với trường hợp của chị thì chúng tôi khuyên nên gởi cho chúng tôi tất các xét nghiệm và mô tả chi tiết về bệnh lý, nếu không tiện xin vui lòng liên hệ với thạc sĩ Huỳnh Hồng Quang, qua số điện thoại di động 0905. 103 496 để tư vấn tiện hơn cho chị. Hy vọng, bạn đã rõ ràng với câu trả lời của chúng tôi và chị thật sự cân nhắc để quyết định.