Nguyen M . TP Cam Ranh - Tỉnh Khánh hòa
Hỏi: Kính mong các bác sĩ cho tôi hỏi ông chồng tôi bị bệnh phổi tắc nghẽn, thường xuyên thở máy vậy nếu thở máy lâu ngày có biến chứng gì không và làm thế nào ngăn ngừa các biến chứng như vậy. Chúng tôi mong nhận được trả lời sớm.
Trả lời: Liên quan đến câu hỏi của bạn chúng tôi xin trả lời như sau: nguy cơ biến chứng liên quan đến bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính hoặc các bệnh lý mạn tính khác liên quan đén tim phổi gồm tổn thương nhu mô phổi do áp lực dương quá mức, áp lực trung bình trong khí đạo cao làm giảm hồi lưu tĩnh mạch, tăng áp lực tĩnh mạch, giảm cung lượng tim. Hậu quả dẫn đến: Giảm oxygen hóa mô do giảm phân phối oxy đến mô mặc dù PaO2 tăng; Giảm tưới máu não gây rối loạn tri giác; Huyết áp tĩnh mạch tăng có thể gây tăng áp lực nội sọ; Giảm tưới máu thận: giảm lưu lượng nước tiểu; Rối loạn chức năng gan do tăng áp lực tĩnh mạch; Thiếu máu nuôi niêm mạc ruột làm giảm hấp thu dưỡng chất, tăng nguy cơ nhiễm trùng và chảy máu tiêu hóa. Khâu chăm sóc nên thường xuyên theo dõi các chỉ số trên máy, phát hiện các bất thường báo cho y, bác sĩ và điều dưỡng hoặc bác sĩ gia đình xử trí.
Nguy cơ biến chứng liên quan đến giao diện bệnh nhân - máy thở gồm có:
Tuột máy khỏi bệnh nhân: khi nghe máy báo động cần kiểm tra ngay vấn đề này; Nhiễm trùng phổi hay viêm phổi liên quan máy thở thường xảy ra 72 giờ sau khi đặt nội khí quản, đa số xảy ra sau 5 ngày thở máy. Khâu chăm sóc cần đảm bảo kỹ thuật vô khuẩn khi hút đàm nhớt, thở khí dung qua máy, thay ống sau 24h, kiểm tra các bộ phận của máy thường xuyên.
Rối loạn dinh dưỡng do bệnh nhân không tự ăn được, phải ăn qua sonde:
Chúng ta cần làm thế nào đảm bảo cung cấp đủ dinh dưỡng cho bệnh nhân, tránh nguy cơ cho bệnh nhân thiếu hụt dinh dưỡng, gầy sút, suy kiệt. Thực hiện cho bệnh nhân uống sữa qua sonde dạ dày đúng giờ. Kiểm tra sonde trước khi cho bệnh nhân bơm sữa, nếu sonde dạ dày không đúng vị trí cần đặt lại sonde khác. Rút và thay sonde mới khi lưu lại từ 5 đến 7 ngày. Nếu Bệnh nhân có buồn nôn hoặc nôn ít, cho bệnh nhân nghĩ khoảng 15 phút, sau đó bơm tiếp lượng ít. Nếu bệnh nhân nôn nhiều thì ngừng bơm sữa, báo bác sĩ. Thực hiện thuốc chống nôn theo y lệnh. Thực hiện truyền dịch cung cấp năng lượng cho bệnh nhân. Đảm bảo nguyên tắc vô khuẩn khi tiêm truyền. Thay kim luồn sau 48 – 72 giờ hay kim luồn không hoạt động tốt: Bệnh nhân bị phù, ngứa, mẫn đỏ, đau nhức tại đầu kim. Thực hiện truyền dịch đúng số lượng, đúng số giọt, tránh nguy cơ truyền dịch gây quá tải tuần hoàn…
Nguy cơ xảy ra biến chứng liên quan nằm lâu: viêm phổi, loét, teo cơ, nhiễm trùng:
Theo dõi các dấu hiệu sinh tồn 1h/lần; Thường xuyên theo dõi bệnh nhân phát hiện bất thường; Nếu nhiệt độ tăng có thể sốt do bội nhiễm, báo bác sĩ, thực hiện y lệnh thuốc hạ sốt, lau mát cho bệnh nhân, cho bệnh nhân uống nước; Cần phải hút đàm nhớt thường xuyên vì ứ đọng đàm nhớt là môi trường cho vi khuẩn phát triển; Đảm bảo vô khuẩn khi hút đàm nhớt. Nghe phổi phát hiện rale bệnh lý, báo bác sĩ khi có bất thường, thực hiện kháng sinh theo y lệnh;
Cần xoay trở bệnh nhân 2 giờ/lần, thay drap giường, hằng ngày xoa bóp nhẹ nhàng những vùng bị tỳ đè nhiều, tuy nhiên không nên xoa bóp mạnh gây trợt da. Lưu ý những vị trí dễ bị loét: chỏm đầu, bả vai, khuỷu, xương cùng, gó chân, tay, mông, cẳng chân,…Giữ gìn vệ sinh các vùng da bị tỳ đè nhiều: hằng ngày 1-2 lần lau bằng khăn mềm, ấm, sau đó lau khô bằng khăn mềm sạch, nhất là sau khi đi đại, tiểu tiện.
Thường xuyên kiểm tra phát hiện sớm các dấu hiệu chớm loét như ngứa, đau, thay đổi màu. da như đỏ, tím để kịp thời điều trị. Khi phát hiện ra các dấu hiệu chớm loét thì phải kê gối, đệm mềm tại các nơi đó để tránh bị tỳ đè thêm, hoặc có thể dùng thuốc xịt sanyren để tránh loét. Thay túi nước tiểu cho bệnh nhân, giúp bệnh nhân vệ sinh bộ phận sinh dục khi thay túi. Tập vận động thụ động cho bệnh nhân phòng ngừa teo cơ cứng khớp: các động tác tập thụ động.
Nguy cơ rối loạn nước điện giải liên quan không cung cấp đủ lượng dịch:
Lập bilan nước xuất nhập và tổng lượng nước xuất,… Cận lâm sàng như điện giải đồ và thực hiện truyền dịch dựa trên lâm sàng và điện giải đồ.
Nguy cơ tai biến vỡ bình, tụt ống dẫn lưu khí màng phổi:
Luôn giữ bình dẫn lưu thấp hơn ngực bệnh nhân; Tránh kẹp ống, chỉ kẹp khi nào cần kiểm tra dò khí hay khi muốn nâng bình lên cao hơn ngực bệnh nhân; Khuyến khích BN hít thở sâu và ho để khạc đàm; Ghi nhận tần số, độ sâu, kiểu thở; Nghe phổi để kiểm tra và phát hiện bất thường; Theo dõi vị trí cắm ống, bảo đảm ống không bị tụt ra ngoài, sờ da để phát hiện thêm những vị trí tràn khí dưới da khác; Theo dõi lượng dịch, sự lên xuống của mực nước, bọt khí và lực hút; Giảm đau; Để kẹp cạnh giường đề phòng trường hợp khẩn cấp; Phòng ngừa tụt ống, nghẹt ống: giữ ống không quá căng, cố định chắc, giữ cho bệnh nhân không đè lên ống, thay dây câu; Giữ bình ở chỗ kín đáo, an toàn, tránh va chạm làm vỡ bình; Khi tụt ông phải dùng gạc vaselin băng kín lại không cho không khí lọt vào; Luôn có 2 kẹp để cạnh giường, khi vỡ bình phải kẹp ống lại kịp thời.
Nguy cơ biến chứng liên quan đặt nội khí quản và sau khi rút ống nội khí quản
Phản xa đối giao cảm có thể gây ngưng tim ngay, xử trí: đấm mạnh vào vùng trước tim nhiều lần, tiếp tục bóp bóng ambu qua ống NKQ với oxy 100%, thực hiện cấp cứu ngưng tim; Rách môi, gãy răng, rách lưỡi, rách hầu. chảy máu do chấn thương họng, nắp thanh môn…; Sưng phù dây thanh âm - thanh quản; Xẹp phổi do đặt sâu vào phế quản một bên; Nhiễm khuẩn phổi phế quản sau 24 giờ (thường do Gram âm); Đường mũi, ngoài những tai biến trên còn có thể: chảy máu cam, viêm xoang sau 2-3 ngày, sốt, chảy nước mũi nhiều, có mủ. Về lâu dài có thể tạo u hạt ở dây thanh âm gây khàn tiếng, hẹp khí quản (5 - 10 năm sau) do túi hơi bơm quá căng làm chèn ép thanh khí quản gây hoại tử, lâu ngày gây sẹo hẹp.
Chăm sóc là đảm bảo đúng nguyên tắc khi chăm sóc nội khí quản, theo dõi tại chỗ: Vị trí và độ sâu của ống: nội khí quản đặt sâu 23cm vào trong miệng bệnh nhân; Tình trạng của ống NKQ; Ống không bị tắc bởi đàm nhớt; Ống không bị tuột sâu vào trong; Ống không bị gập, nếu có gặp thì thường ở đoạn miệng hoặc hầu họng do bệnh nhân giẫy giụa nhiều, không cố định chắc nội khí quản và đường thở. Nếu phát hiện báo bác sĩ và phụ giúp bác sĩ đăt lạị;
Chăm sóc tại chỗ như vệ sinh răng miệng bằng nước muối có pha betadin loãng, thay các băng dính hàng ngày ,thay băng chân mayor 2 lần /ngày. Khi thay băng dính trên ống nội khí quản của bệnh nhân nhớ thay đổi vị trí của ống để tránh loét, rách môi. Nếu bệnh nhân lơ mơ thì rất dễ bị kích thích dẫn đến tụt ống nên có thể dùng an thần cho bệnh nhân trước khi làm; Hút ống nội khí quản khi nào có đờm rãi. Khi hút đảm bảo vô khuẩn;
Khi hút nội khí quản: động viên giả thích cho bệnh nhân, để đầu cao 15-300 cho bệnh nhân thở oxy 100% trước khi hút cho bệnh nhân. Tiến hành hút:
·Tay trái cầm dây máy hút , tay phải lấy dây hút (tay (P) chỉ cầm dây hút để đảm bảo vô trùng) lắp dây hút vào dây máy hút Tay (T) bật máy hút, sau đó lòng tay trái cầm dây máy hút. Ngón 3 và ngón 4 kẹp đầu ống nội khí quản, ngón 1 gập dây sát vào ống hút. Tay (P) cho dây hút từ từ vào ống nội khí quản đến khi thấy vướng hoặc bệnh nhân kích thích thì dừng lại và bỏ chỗ ngón cái tay (T) gập ống ra, sau đó ngón 1 và 2 tay (P) từ từ vê dây hút và kéo dây hút ra (mỗi lần hút không quá 20 giây, tổng số lần hút không quá 2 phút, trước và sau khi hút xong cho BN thở oxy 100%);
·Hút đường hô hấp trên qua mũi, sao đó hút ở miệng: khi theo dõi và chăm sóc bệnh nhân động tác phải chính xác, đảm bảo vô trùng. Khi thấy ống nội khí quản có dấu hiệu bán tắc hoặc tắc thông qua hơi thở rít, khó thở, SpO2 giảm thì phải hút, nếu không được phải báo bác sĩ để xử trí kịp thời;
·Bệnh nhân lo lắng do thấy có tràn khí dưới da mô nền thành ngực (P). Thực hiện thường xuyên an ủi động viên bệnh nhân. Tạo cảm giác gần gủi để bệnh nhân bày tỏ những lo lắng của mình;
·Thường xuyên thay ga giường sạch sẽ, vệ sinh xung quanh giường bệnh, tạo môi trường thoải mái, dễ chịu cho bệnh nhân. Giải thích cho BN việc xuất hiện tràn khí dưới da sẽ dần mất khi các triệu chứng bệnh thuyên giảm, đồng thời báo bác sĩ về việc xuất hiện thêm những dấu tràn khí dưới da mới. Phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, tác phong nhanh nhẹn, chính xác và luôn có mặt kịp thời để BN yên tâm. Khuyến khích người nhà trò chuyện, an ủi BN, giúp Bệnh nhân an tâm hơn vào công tác điều trị.
Bệnh nhân vệ sinh kém do không có khả năng tự chăm sóc bản thân:
Giúp vệ sinh sạch sẽ cho BN, tạo cho BN thấy thoải mái, phòng ngừa nguy cơ bội nhiễm; Vệ sinh răng miệng cho BN ngày 2 lần bằng gòn và nước muối sinh lý; Hướng dẫn người nhà lau sạch BN ngày 2 lần. Khuyến khích người nhà xoay trở cho BN, vệ sinh ở những vị trí khó làm như vùng lưng, mông,...; Thay drap giường cho bệnh nhân mỗi ngày hoặc khi BN đi tiêu vào drap giường, drap giường có nhiều chất tiết của BN; Mũi dễ nghẹt do dịch tiết, nên chăm sóc mũi sạch sẽ, hút đàm nhớt và áp dụng kỹ thuật vô trùng. Hướng dẫn người nhà không dùng bông gòn nhét vào mũi bệnh nhân để thấm dịch vì như thế sẽ gây ứ đọng dịch và là nơi phát triển cho vi khuẩn; Giúp Bệnh nhân vệ sinh sạch sẽ sau khi tiêu tiểu, chú ý bộ phận sinh dục và hậu môn. Dán keo mới cho kim luồn khi thấm máu hoặc dính mồ hôi, gỡ bỏ những miếng dán ở những vết tiêm chích cũ; Thường xuyên quan sát, theo dõi những vị trí dễ bị loét. . Kiểm tra da hằng ngày xem có thay đổi màu sắc hay vết loét hay không. Có thể thoa dung dịch chống loét Sanyrene lên những vùng đè ép mỗi ngày.
Với phần trả lời như trên, chúng tôi tin rằng bạn và gia đình đã có thể chăm sóc bệnh nhân COPD tại bệnh viện và tại nhà tốt hơn trong thời gian đến, thân chúc khỏe!
Bùi Hữu Thị L. 58 tuổi, Bình định, 0914….lienbui@gmail.com
Hỏi: Xin chào các bác sĩ và tiến sĩ ở Viện sốt rét ký sinh trùng quy nhơn, tôi chưa bao giờ nhìn thấy trang web nào tư vấn bệnh một cách chi tiết và rõ ràng cho các bệnh nhân và gia đình bệnh nhân một cách chi tiết như ở đây. Do vậy, chúng tôi xin mạo muội hỏi về cách sử dụng đúng dụng cụ xịt điều trị và khống chế cơn hen và bênh phổi mạn tính như ông nhà tôi dang mắc phải gần 10 năm qua. Kính chào trân trọng!
Trả lời:
Trước mắt chúng tôi xin chân thành cảm ơn các bác và gia đình đã tín nhiệm và đặt câu hỏi này cho chúng tôi phúc đáp, liên quan đến câu hỏi của bác tôi xin chia sẻ một số thông tin thiết thực và mang tính thực hành sử dụng bình xịt để kiểm soát hen và bệnh lý phỏi mạn tính (COPD) mà các đồng nghiệp đang làm trong các chuyên khoa lao và bệnh phổi trả lời.
Hướng dẫn sử dụng đúng cách dụng cụ hít - xịt trong hen và COPD: Như chúng ta đã biết, trước kia các bệnh phổi mạn tính như hen và copd được điều trị chủ yếu bằng các loại corticoid uống và chích như asmacort, kenacort và các thuốc dãn phế quản dạng uống như asmin. Những thuốc này cũng có tác dụng làm giảm cơn khó thở cho bệnh nhân nhưng tác dụng phụ rất nhiều như run tay, hồi hộp, nhịp tim nhanh, loãng xương, giữ nước làm mặt tròn như mặt trăng, dễ bầm và xuất huyết ở da, rối loạn đường huyết, … Ngày nay, khoa học ngày càng tiến bộ, các nhà khoa học đã tìm ra những phương pháp điều trị tiên tiến hơn để làm tăng hiệu quả điều trị và làm giảm tác dụng phụ của thuốc. Các loại thuốc này được chế tạo dưới dạng bình hít xịt cầm tay, gọn nhẹ, tiện nghi và dễ sử dụng mọi lúc, mọi nơi. Đó là các loại bình hít xịt định liều MDI, turbuhaler, handihaler, accuhaler. Tuy nhiên, để sử dụng các dụng cụ hít và xịt này, bệnh nhân cần được hướng dẫn kỹ năng phối hợp một cách thuần thục và chính xác để tăng hiệu quả điều trị. Cách đây 3 năm, khi bệnh viện Nhân Dân Gia Định chưa thành lập phòng khám quản lý hen và COPD thì việc điều trị ngoại trú bệnh nhân hen và COPD hầu như không đạt được kiểm soát tốt. Chúng tôi thấy những bệnh nhân hen và COPD thường xuyên phải nhập viện vì những cơn khó thở cấp tính. Một câu hỏi được đặt ra là tại sao bệnh nhân được điều trị đúng và đủ liều thuốc mà vẫn thường lên cơn khó thở. Khi khảo sát kỹ thuật sử dụng bình hít xịt của bệnh nhân, kết quả cho thấy đa số bệnh nhân đều sử dụng không đúng. Vì thế vấn đề chính trong việc điều trị không hiệu quả là bệnh chưa được hướng dẫn sử dụng kỹ thuật bình hít xịt. Chính vì tầm quan trọng này trong việc điều trị kiểm soát thành công bệnh hen và COPD, nên phòng Quản lý hen của bệnh viện Nhân Dân Gia Định tổ chức câu lạc bộ sinh hoạt với chuyên đề: “ Hướng dẫn sử dụng đúng cách dụng cụ hít-xịt trong hen và COPD. Nội dung trình bày gồm 2 phần:
·Phân biệt thuốc điều trị cắt cơn và ngừa cơn
·Hướng dẫn sử dụng đúng cách bình hít – xịt và các yếu tố quyết định kỹ thuật sử dụng
Phân biệt thuốc điều trị cắt cơn và ngừa cơn
Thuốc điều trị cắt cơn: Là những thuốc cấp cứu, trong trường hợp bệnh nhân lên cơn khò khè khó thở. Khi đó các cơ trơn của tiểu phế quản là những đường dẫn khí nhỏ bị co thắt lại khiến đường thở của bệnh nhân hẹp lại gây ra những cơn khó thở cấp tính khiến bn phải thở nhanh, co kéo cơ hô hấp phụ, nói ngắt quảng từng tiếng một, hoặc tím tái ngưng thở, trong trường hợp này bệnh nhân sẽ sử dụng thuốc dãn phế quản gọi là những thuốc cắt cơn có tác dụng làm dãn cơ trơn tiểu phế quản trong vài phút làm mở rộng đường hô hấp cho không khí lưu thông dễ dàng, giải phóng triệu chứng khó thở cho bệnh nhân. Lưu ý khi sử dụng xịt họng từ 4 đến 6 lần mà không cắt được cơn khó thở là phải nhập viện cấp cứu để chuyển qua chế độ điểu trị cơn cấp nặng trong bệnh viện. Hình ảnh sau minh họa cho thấy đây là đường dẫn khí bình thường, lòng tiểu phế quản rộng thông thoáng, niêm mạc thon mỏng, không khí lưu thông dễ dàng. Khi lên cơn khó thở, các cơ trơn tiểu phế quản siết lại, làm hẹp đường dẫn khí, đồng thời tình trạng viêm làm phù nề niêm mạc làm đường kính tiểu phế quản hẹp hơn nữa, khí trong các túi phế nang không thoát ra được dẫn đến phồng ứ khí phế nang, lúc này bệnh nhân sẽ rất khó thở. Như vậy những thuốc cắt cơn là những thuốc tác dụng lên khâu dãn cơ trơn đường thở. Những thuốc điều trị cắt cơn hiện nay là ventolin (bình màu xanh), berodual (vỏ bình màu trắng), và symbicort (vỏ bình màu trắng, đế màu đỏ) đặc biệt bình xịt symbicort này có 2 thành phần thuốc vừa có tác dụng cắt cơn vừa có tác dụng ngừa cơn. Tác dụng phụ của những thuốc cắt cơn là nhịp tim nhanh, run tay, và khô miệng.
Thuốc điều trị ngừa cơn
Tình trạng viêm mạn tính làm phù nề niêm mạc đường thở, làm hẹp đường thở, cản trở không khí lưu thông, những thuốc này có tác dụng kháng viêm làm giảm giảm tình trạng phù nề của đường thở, giúp niêm mạc đường thở không còn dày lên nữa do phù nề mà trở nên thon mỏng.Như vậy thuốc ngừa cơn là những thuốc: Điều trị mỗi ngày, thậm chí nếu không có triệu chứng; Thời gian điều trị lâu dài; Tác động kháng viêm; Không cắt được cơn khó thở cấp; Những nghiên cứu cho thấy, thuốc ngừa cơn corticosteroid dạng hít là những thuốc có tác dụng: làm giảm triệu chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống, cải thiện chức năng phổi, giảm tính tăng đáp ứng của đường thở, kiểm soát tình trạng viêm của đường hô hấp, giảm tỉ lệ tử vong.
Tác dụng phụ là khô miệng, nấm lưỡi và khàn tiếng, nhưng chỉ cần một động tác đơn giản là súc miệng sạch ngay sau khi hít và giảm tác dụng phụ đáng kể. Những thuốc điều trị ngừa cơn hiện nay là symbicort, seretide dạng MDI và ACCUHALER, SPIRIVA HANDIHALER, Khi sử dụng thuốc ngừa cơn này khoảng 1 tuần sau là bệnh nhân hen hầu như không còn lên cơn khó thở nữa nhưng điều đó không có nghĩa là bệnh hết bệnh, mà bệnh nhân vẫn phải tuân thủ điều trị duy trì liều thuốc theo đúng bác sĩ đã kê đơn và tái khám theo lịch hẹn. Sau mỗi 3 – 6 tháng nếu bệnh nhân kiểm soát hen hoàn toàn bác sĩ sẽ giảm liều xuống một bậc, theo từng bậc thang điều trị, đến khi nào bệnh nhân đạt được liều thuốc thấp nhất nhưng vẫn hiệu quả nhất, và ít tác dụng phụ nhất.
Cách sử dụng đúng cách bình xịt hít và các yếu tố quyết định kỹ thuật sử dụng (Turbuhaler)
Hình ảnh trên đây là cấu tạo của bình hít turbuhaler symbicort với đế màu đỏ dùng để xoay khi nạp thuốc, giữa thân bình hít có cửa sổ chỉ thị liều và luồng khí xoắn ở đầu ống ngậm. Như vậy luồng khí xoắn ở đầu ống ngậm trong bình xịt symbicort turbuhaler có công dụng như thế nào? Hình ảnh sau đây minh họa cho thấy với luồng khí xoắn ở đầu ống ngậm thì thuốc phụt ra mạnh hơn, nhiều hơn và phân phối đều và sâu hơn vào các tiểu phế quản hơn luồng khí phụt ra theo đường thẳng.
Hy vọng với phàn phúc đáp trên đã làm bác hài lòng và thực hiện đúng để kiểm soát các cơn hen từng hành hạ bác nhé. Thân chúc cả gia đình bác khỏe!
Nhung- nhung0180@gmail.com - TP Đà Nẵng
Hỏi: Tôi bị áp xe gan khi điều trị tại BV Đà Nẵng có làm xét nghiệmbị nhiễm giun đủa chó,phản ứng bạch cầu ai toan (ko nhiễm sán lá gan) Đã điều trị thuốc Zentel 21 ngày (ngày 2 lần mỗilần 400mg) và truyền kháng sinh theo hình ảnh siêu âm thì chổ áp xe đã hết nhưng trên hình ảnh CT thì chổ áp xe đã nhỏ lại. Sau khi ra viện được 4 tháng tôi tái khám và làm xét nghiệm thi giun đũa chó vẫn còn dương tính, hình ảnh CT gan vẫn có nhiều chổ bị tổn thương. BS cho uống tiếp thuốc Zentel 21 ngày cũng như liều dùng như trên. Khi uống được 5 ngày tôi đi đại tiện có ra 1 con giun dài 15cm đường kính 4mm con giun này con sống (theo test trên google thì hình ảnh giống giun đũa chó). BS cho tôi hỏi tôi đã điều trị đúng phát đồ chưa? và dùng thuốc Zentel có đặc trị hết sán giun đũa chó không? và thời gian phải điều trị là mấy đợt thuốc như trên là hết bệnh. Cảm ơn BS đã trả lời cho tôi. Xin cảm ơn!
Trả lời: Trước hết chúng tôi xin cảm ơn bạn về một câu hỏi tình huống rất thú vị, liệu chăng đây có phải là abces gan do ấu trùng giun đũa chó hay không, nếu thaathj thì đây là một ca bệnh rất hiếm gặp trên lâm sàng mặc dù chúng tôi đã gặp nhiều trên thực hành lâm sàng tại Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn. Chúng tôi có một số tham vấn cho bạn để hiểu thêm vấn đề bệnh này:
(i) Liệu đây là trường hợp abces gan do ấu trùng giun đũa chó thì được xếp vào loại ấu trùng giun đũa chó mèo di chuyển nôi tạng (Visceral larva migrans_VLMs) thì phác đồ trên đã cho dùng như thế là đúng, nếu sau thời gian 2-3 tháng khối abces giảm dần và lâm sàng không còn dấu hiệu gì nữa bạn có thể dùng thêm liều thức hai cũng 21 ngày để điều tị dứt điểm. Rất tiếc chúng tôi không nhìn thấy hình ảnh trên siêu âm cũng như trên CT scanner mà bạn đã chụp để tư vấn thấu đáo hơn; Bạn có thể tham khảo hình ảnh các abces gan do sán lá gan lớn hoặc amips hoặc giun đũa chó mèo sẽ có điểm kháng nhau về tính chất hồi âm và diện lan rộng của chúng (xem các hình ảnh bên dưới);
(ii) Bạn cho rằng vừa qua đi đại tiện có ra một con giun và khi bạn kiểm tra trên google là giun đũa chó thì chúng tôi không nghĩ như vậy vì lẽ bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo là bệnh lý ngõ cụt ký sinh, với chó mào là vật chủ chính trong khi người là vật chủ tình cờ nên có thể không hoàn tất chu trình dẫn đến phát triển thành con trường thành, nên không thể tìm thấy chúng trong phân được dạng trưởng thành như bạn nghĩ, vả lại với liều thuốc zentel như trên chúng tôi nghĩ không còn giun đường ruột nào có thể sống sót nổi, ngoại trừ ký sinh phủ tạng có thể tồn tại lây hơn. Có thể bạn quá lo lắng nên khi nhìn thấy một vật giả thì nghĩ đến nó và chúng tôi đã gặp một trường hợp như thế bệnh nhân là người nước ngoài có dấu hiệu khó tiêu và không tiêu hết cọng giá sống, khi đi ra phân thì hoảng hốt cho rằng giun đũa chó, và khi soi vi thể chúng tôi xác nhận là...cọng giá ăn không tiêu;
(iii) Việc xét nghiệm ấu trùng giun đũa chó mèo có thể còn dương tính sau khi điều trị bằng các thuốc giun sán phổ rộng như Zentel chẳng hạn thì có thể tồn tại dương tính này là tối thiểu 4 tháng và tối đa 2 năm, nên sau điều trị bạn xét nghiệm mà còn dương tính là có thể xảy ra, bạn không cần lo lăng quá. Việc điều trị như thế đã ổn định và chúng tôi cũng muốn nhắc bạn là xét nghiệm giun đũa chó mèo hiện đã được các nhà ký sinh tùng công bố đã có phản ứng dương tính chéo đến 11 loại giun, sán khác nhau rồi.
Với phần phúc đáp ở trên, chúng tôi hy vọng bạn sẽ hiểu thấu hơn một chuyên ngành ký sinh trùng đang được quan tâm và rất thời sự này, nhất là tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Hoàng Việt Trung - ineedyou.lonely@gmail.com- Đống Đa - Hà Nội
Hỏi: Em đang học môn ký sinh trùng và có một thắc mắc nhỏ về chu kỳ của Sán lá phổi mong được quý thầy cô giải đáp: khi ấu trùng xuyên từ màng bụng qua cơ hoành, màng phổi để đi vào phổi sao chúng lại đi theo từng đôi, cơ chế ở đây là như thế nào ạ? Em xin cảm ơn!
Trả lời: Đây cũng là một câu hỏi thú vị về chuyên ngành ký sinh trùng, đặc biệt sán lá phổi và câu hỏi này đã được phúc đáp do một bạn đọc hỏi cách nay vài tháng, bạn có thể tìm đọc lại trong chuyên mục này của trang website này để hiểu rõ hơn nhé. Hàng ngày chúng tôi cũng hay gặp các câu hỏi thú vị khác có vấn đề chúng ta hiểu biết rõ về bản chất của chúng, nhưng không phải tất cả mà chúng ta biết tường tận về cơ chế sinh lý bệnh và chu kỳ sinh bệnh học mà giới khoa học, đặc biệt các nhà ký sinh trùng hiện đang quan tâm khám phá ngày một công bố trên các trang thông tin khoa học. Thân chúc bạn khỏe!
Vĩnh Hải, Cty Phú Hưng, tỉnh Kiên Giang, 0988 231....
Hỏi: Cho tôi hỏi thuốc gốc là gì? Vì sao người ta hay nhắc đên thuốc gốc và thuốc biệt dược. Tôi xin cảm ơn nếu phúc đáp sớm!
Trả lời: thân chào Vĩnh Hải, rất tiếc chúng tôi xin lỗi vì không thể phúc đáp ngay cho bạn được vì số câu hỏi hàng ngày đến ban biên tập khá nhiều trong khi thời gian không cho phép vì còn nhưng công việc nghiên cứu, điều trị và hoạt động khác của Viện nữa, nên mong bạn thông cảm. Liên quan đến câu hỏi của bạn, chúng tôi xin trả lời như sau:
Thuốc gốclà thuốc tương đương sinh học với biệt dược về các tính chất dược động học và dược lực học, được sản xuất khi quyền sở hữu công nghiệp của biệt dược đã hết hạn, nhờ đó thường được bán với giá rẻ.Thuốc gốc giống với biệt dược về liều lượng, độ an toàn, nồng độ, tác dụng,cách dùng và chỉ định.Thuốc gốc thường được sản xuất bởi các công ty dược nhỏ, không đầu tư vào nghiên cứu và phát triển thuốc mới. Việc nghiên cứu thuốc mới thường rất tốn kém nên thường được tiến hành bởi các công ty dược lớn và được bán với giá cao trong thời gian bằng sáng chế chưa hết hạn để bù đắp chi phí. Các nhà sản xuất thuốc gốc không phải trang trải chi phí này nên giá thường rẻ hơn nhiều so với biệt dược đầu tiên.
Thuốc gốc có thể được sản xuất hợp pháp khi: Bằng sáng chế đã hết hạn; Công ty thuốc gốc xác nhận bằng phát minh của công ty biệt dược không có hợp pháp, không có giá trị cưỡng chế hoặc không bị xâm phạm; Thuốc không được giữ bằng sáng chế, hoặc Ở những nước bằng sáng chế không có hiệu lực. Việc sử dụng thuốc của các bác sĩ trong thời buổi kinh tế thị trường, với nhiều chiêu thức tiếp thị đầy hấp dẫn của các hãng dược phẩm, nhất là của nước ngoài thì việc cân nhắc dùng biệt dược hay thuốc gốc trong điều trị là cả một vấn đề. Chung quy lại cần lấy tiêu chí khỏi bệnh và vì người bệnh, nhất là đặt đối tượng bệnh nhân nghèo lên trên hết, chứ không nhất thiết cứ phải là thuốc đắt tiền mới là “thần dược”. Vấn đề này càng mang tính thời sự bức xúc khi mà thực trạng tăng giá thuốc, đặc biệt là thuốc ngoại nhập hiện đang được dư luận toàn xã hội rất quan tâm. Thời gian bảo hộ bằng sáng chế khác nhau ở mỗi nước và khác nhau cho từng loại thuốc. Thường cũng không thể làm lại bằng sáng chế sau khi nó hết hạn. Một số thầy thuốc và bệnh nhân do dự khi dùng thuốc gốc vì lo ngại chất lượng của chúng. Tuy nhiên, trong hầu hết trường hợp khác biệt giữa biệt dược và thuốc gốc chỉ là giá cả và tên gọi. Ở Hoa Kỳ, Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm (FDA) chịu trách nhiệm bảo đảm thuốc gốc có tính hiệu quả và an toàn. Nhà sản xuất thuốc gốc cần chứng minh công thức của họ thể hiện tương đương sinh học so với sản phẩm tên biệt dược.
Tên thuốc gốc có thể là tên khoa học, danh pháp quốc tế (INN, International Nonproprietary Name) hoặc danh pháp theo quy định của các nước (USAN của Hoa Kỳ, BAN của Anh...) của dược chất hay hoạt chất chứa trong công thức tạo nên dược phẩm. Một số công ty cũng đặt tên biệt dược cho thuốc gốc. Ví dụ, Valium là tên biệt dược đầu tiên cho Diazepam (thuốc an thần) của hãng Roche. Hiện nay thuốc này đã hết hạn độc quyền và được sản xuất với tên thuốc gốc là Diazepam hoặc tên biệt dược khác như: Seduxen (Hungaria), Diazepin (Bulgaria), Relanium (Ba Lan), Rival (Mỹ), Eurosan (Thụy Sĩ), Diazefar (Việt Nam) v.v... Theo TS. Kiều Khắc Đôn, thuốc gốc quốc tế (gọi tắt là INN: International nonproprietary names) là loại thuốc mang tên cội nguồn dược chất đã được phát minh hoặc tên hóa học của nó. Trong số đó nhiều loại đã được phát minh ra từ lâu và đã hết bản quyền phát minh sáng chế. Thông thường, thuốc gốc có chứa một hoạt chất chính, được các nhà khoa học về dược phẩm đầu tư nghiên cứu và phát hiện ra các tác dụng dược lý của chúng trong việc điều trị một thứ bệnh hay một chứng bệnh nào đó. Để có thể tìm ra được một loại hoạt chất mới, thường phải tốn kém rất nhiều về tiền của nên các nhà khoa học cần có sự hỗ trợ về tài chính rất lớn của các hãng hay công ty dược phẩm; Vì vậy sau khi phát minh, họ được độc quyền về sáng chế phát minh, còn các hãng sản xuất đã mua bằng sáng chế phát minh này thì được độc quyền về sở hữu công nghiệp. Do đó, các loại thuốc mới thường được bán với giá rất cao để bù vào các chi phí trong quá trình nghiên cứu, đầu tư trang thiết bị. Lấy ví dụ như các loại thuốc điều trị bệnh AIDS và thuốc chống bất lực ở nam giới là Viagra - đều là những loại thuốc mới được phát minh và độc quyền sản xuất nên có giá rất đắt, nhiều người gọi chúng là những loại thuốc dành cho người giàu. Thế nhưng, theo thời gian, khi nhà sản xuất đã thu được lợi nhuận to lớn từ các loại thuốc mới này thì giá thành của thuốc sẽ giảm dần và chừng độ 20 năm sau thì hết hạn độc quyền. Lúc đó thuốc biệt dược của hãng sẽ trở thành thuốc gốc và mọi công ty dược phẩm khác có quyền sản xuất mà không sợ bị kiện cáo gì. Chính vì thế mà khá nhiều người đã hiểu lầm đó là những loại “thuốc nhái”. Như vậy, có thể hiểu rằng thuốc gốc chỉ là những thuốc không còn “thời thượng” nữa chứ không phải là thuốc dỏm, thuốc kém phẩm chất. Dùng thuốc gốc không chỉ giúp giảm chi phí điều trị mà còn có lợi thế là do đã qua một thời gian dài thử thách nên thuốc bộc lộ được hết những tác dụng phụ và tai biến của chúng, giúp cho ta có thể phòng ngừa. Riêng đối với các loại kháng sinh thì thuốc gốc có nhược điểm là do đã được dùng nhiều nên dễ phát sinh khả năng đề kháng của vi khuẩn, làm cho tác dụng kháng khuẩn kém đi nhiều, chẳng hạn như penicillin hiện nay ít được sử dụng hơn trước. Ngược lại cũng có những loại thuốc gốc càng dùng, người ta càng phát hiện ra các giá trị của chúng và cả những tác dụng dược lý mới.
Aspirin có hoạt chất chính là acetyl salicylic, là loại thuốc đã được phát hiện từ hơn một thế kỷ nay, lúc đầu chỉ dùng chữa nhức đầu, cảm sốt nhưng qua hơn một trăm năm sử dụng, người ta không chỉ phát hiện ra mặt có hại là kích ứng niêm mạc đường tiêu hóa gây tai biến xuất huyết mà còn tìm ra nhiều tính chất quý báu nữa của chất này, điển hình nhất là khả năng chống kết tập tiểu cầu. Vì thế trong một vài thập kỷ gần đây, aspirin lại được nhiều người sử dụng để phòng chống các tai biến về tim mạch. Hiện nay trên thị trường dược phẩm nước ta, aspirin và các loại biệt dược có chứa hoạt chất này đều được sản xuất một cách thoải mái và có giá khá rẻ (Apo-Asa, Aspirin pH8, Aspral pH8, Nipadol, Alka-Selzer...). Vitamin C cũng là một dược chất có bề dày thời gian đáng nể. Càng dùng nó, người ta càng phát hiện những tác dụng thật bất ngờ. Không chỉ với tác dụng ban đầu là chống chảy máu và chữa bệnh hoại huyết (bệnh Scorbut) giờ đây vitamin C còn được coi như là một trong những hoạt chất chính trong thành phần các thuốc chống lão hóa, làm trẻ cơ thể. Loại thuốc gốc này có thể được xem là ví dụ điển hình về một cầu nối khá thú vị giữa chất cổ điển và các loại biệt dược đời mới. Có thể lấy ví dụ các biệt dược mới có chứa vitamin C và được phối chế thêm một số dược chất khác như paracetamol (Efferalgan vitamin C), nhiều vitamin nhóm B và muối khoáng (Plusssz, phối hợp với nhân sâm (Ginseng C), UPSA-C-Calcium v.v...
Biệt dược hay tên thương mại (specialties, brand names) là các loại thuốc đặc biệt, những loại thuốc ban đầu mới được phát minh và độc quyền sản xuất. Tên của biệt dược là do các nhà khoa học hay nhà sản xuất đặt cho và có thể không phụ thuộc gì vào tên hóa học của hoạt chất chính có trong thuốc đó. Thí dụ Viagra, loại biệt dược nổi tiếng mới được phát minh và đi vào sản xuất năm 1997 là thứ thuốc mà trong đó chỉ có chứa hoạt chất chính là Sildenafil citrat. Trong những năm cuối của thế kỷ 20, doanh thu của biệt dược có tác dụng điều trị chứng rối loạn cương dương (ED) ở nam giới này đã lên đến hàng tỷ USD. Và nếu như ai đó mắc căn bệnh này, lại muốn mua Viagra với giá rẻ thì phải “đợi thêm” hơn chục năm nữa, khi nó biến thành thuốc gốc như trên đã trình bày!
Bắt chước các loại thuốc thang của y học dân tộc, ngày nay nhiều loại biệt dược không ch ỉ đơn thuần chứa một loại hoạt chất, mà thường được các nhà sản xuất nghiên cứu để phối chế thêm nhiều loại dược chất thuộc diện thuốc gốc với nhau để tạo ra một sản phẩm mới có hiệu quả điều trị đa năng hơn, đó cũng là những biệt dược. Chẳng hạn như khi bị sốt cao có kèm theo nhức đầu, sổ mũi thì các thầy thuốc có thể kê đơn cho ta 2 loại thuốc gốc với giá rẻ là paracetamol và thuốc nhỏ mũi naphazolin hay ephedrin, nhưng cũng có người khuyên nên dùng Decolgel hay Tiffy, vì chúng đang ở dạng biệt dược do trong đó đã hội đủ các loại dược chất tương đương. Khi ho nhiều, có đau và sốt, ta có thể dùng thuốc giảm đau hạ nhiệt và thuốc ho là codein hay terpin codein, nhưng nếu giản tiện hơn có thể dùng loại biệt dược mang tên Efferalgan codein (chú ý trẻ em dưới 5 tuổi không được dùng loại này). Xu hướng hiện nay của một số nhà sản xuất dược phẩm là phối chế nhiều loại thuốc gốc với nhau để tạo ra các biệt dược mới có tên gọi nhiều khi rất khác nhau. Sự phối chế này là kết quả của nhiều công trình nghiên cứu lâu dài nhằm tránh hiện tượng tương kỵ và tương tác thuốc khi vào cơ thể. Nếu chúng lại có tác dụng hiệp đồng làm tăng tác dụng dược lý của nhau thì càng tốt.
Những vấn đề trình bày trên đây cũng mới chỉ là các thông tin còn sơ lược về tên thuốc gốc và biệt dược. Sự lựa chọn loại thuốc nào còn tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, ở cả phía bệnh nhân và thầy thuốc. Bộ Y tế nước ta cũng đã có thông tư và quy chế bệnh viện quy định tiêu chuẩn của một đơn thuốc hợp lý là tên thuốc phải được ghi theo tên gốc để tránh bị nhầm lẫn khi có nhiều tên thuốc na ná như nhau, hoặc dùng trùng lặp nhau trong cùng một đơn (toa) gây ra tai biến quá liều, có thể thay thế cho nhau và có thể lựa chọn loại thuốc nào cùng chung tác dụng dược lý. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, vì nhiều động cơ khác nhau (trong đó chủ yếu là vì lợi nhuận), nên nhiều thầy thuốc đều ngại kê đơn theo tên gốc mà lại thích kê đơn theo biệt dược. Mặt khác, nhà thuốc cũng thu lãi cao hơn nhiều lần khi bán theo biệt dược. Hiểu được bản chất của vấn đề trên, đối với các bệnh nhân có thẻ bảo hiểm y tế khi được các thầy thuốc kê đơn cho nhiều loại thuốc gốc, giá rẻ thì cũng không nên thắc mắc, cho rằng đó là các loại thuốc không tốt, tác dụng điều trị kém. Với những thầy thuốc có trình độ chuyên môn cao và dày dạn kinh nghiệm, thường là họ tìm cách điều trị vừa không gây tốn kém cho bệnh nhân mà vẫn đảm bảo khỏi bệnh - chứ không nhất thiết cứ phải dùng thuốc đắt, phải dùng biệt dược.
Trên đây là các thông tin liên quan đến câu hỏi của bạn, chúng tôi xin chia sẻ từng các thông tin có được từ các đồng nghiệp. Thân chúc bạn khỏe!
Vo trong - Changkho_muonemyeu@email.com.vn- Thanh pho bac lieu
Hỏi: Phan biet Benh truyen nhiem o vat nuoi lay sang nguoi va benh truyen nhiem vat nuoi khong lay sang nguoi?
Trả lời: Xin chào Võ Trọng, chúng tôi thật sự không biết bạn đặt câu hỏi cho ai/ cơ quannào có nhầm lẫn không, vì khi chúng tôi nhận được mail của bạn không biết bạn muốn hỏi ai và nhờ ai trả lời, mục đích của câu hỏi bạn để làm gì?...vì trong câu hỏi của bạn không thấy hỏi đề cập đến ai, cơ quan nào để mong nhận được câu trả lời cả nên chúng tôi xin từ chối phúc đáp. Thân chúc bạn khỏe!
Nguyễn Thị Cẩm Uyên - uyen.nguyenthicam@gmail.com - TT An Lão - An Lão - Bình Định
Hỏi: Thưa bác sĩ, hiện nay tôi đang bị đau dạ dày, nhưng điều trị bằng nhiều loại thuốc tây y và thuốc nam mà không khỏi. Hiện tượng đau càng ngày càng kéo dài, có khi đau sau khi ăn và lúc đói, dù tôi đã kiên cữ rất kỹ khi dùng thuốc (không ăn thức ăn chứa nhiều mỡ, thức ăn quá cay, không ăn đồ chua, không dùng chất kích thích). Cảm giác đau rát vùng thượng vị và vùng bụng quanh rốn. Tôi có nghe tại Viện có thể xét nghiệm tìm nguyên nhân và rất muốn đến khám (vì tôi rất sợ nội soi dạ dày). Vậy xin hỏi bác sĩ, nếu xét nghiệm và nội soi thì có thể tìm được nguyên nhân và loại vi rút gây bệnh không, và phương pháp nào cho kết quả chính xác và điều trị tốt nhất. Vì điều kiện ở xa tôi chỉ có thể đến viện vào ngày cuối tuần để khám, bác sĩ vui lòng cho tôi biết lịch làm việc của Viện được không. Xin chân thành cảm ơn!
Trả lời: Chúng tôi rất cảm ơn bạn đã tin tưởng Viện chúng tôi khi đặt câu hỏi và nhờ tư vấn về căn bệnh dạ dày mà bạn đang mắc phải và khó chịu trong sinh hoạt hàng ngày, cũng như quá trình phức tạp điều trị mà bạn đã từng trải qua. Phần lớn các y bác sĩ hiện nay đều biết đến phác đồ điều trị dạ dày gồm phức hợp 3 thuốc (kít) để điều trị tối ưu nhất nhát cũng như tránh tái phát đau dạ dày. Tuy nhiên, vẫn còn một số bác sĩ chưa cập nhật các phác đồ điều trị mới hay phác đồ chống kháng thuốc theo xu hướng tối ưu hóa trong điều trị bệnh lý dạ dày tá tràng nhằm ngăn ngừa biến chứng cũng như lâu dài gây ung thư tiêu hóa do vi khuẩn Helicobacter pylori.
Ngoài ra, một số tác nhân khác cũng có thể khiến bạn đau dạ dày như nhóm ký sinh trùng, đặc biệt là ấu trùng giun lươn Strongyloides stercoralis, ấu trùng giun đầu gai Gnathostoma spinigerum cũng gây viêm, loét hoặc thủng dạ dày thực quản mà từ lâu các nhà lâm sàng có vẻ lãng quên khi đặt ra vấn đề chẩn đoán phân biệt với chúng. Do vậy, nếu bạn ngaoi việc nội soi thi bạn có thể Viện chúng tôi xin được xét nghiệm các tác nhân trên để tìm ra đúng chính xác tác nhân trên và được các bác sĩ tư vấn điều trị thấu đáo hơn, ở đây bạn chỉ được lấy một ít máu xét nghiệm và sau 3 giờ đồng hồ sẽ có xét nghiệm ngay và điều trị cho bạn sau đó! Thân chúc bạn khỏe!
nguyen minh chi - phuongchi7979@gmail.com - Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk
Hỏi: Tôi 25t. bị nhiễm giun san chó. test ELISA:OD = 1,10 ( chỉ số ko bị bệnh 0,3). Cơ thể mệt mỏi. đau nhức. Tôi được chỉ định uống zeltel 21 ngày. Sau đó 3 tháng xét nghiệm lại vẫn con kết quả 0,7. Tôi uống 5 liều Ivermectin (15 viên). Sau đó 5 tháng xét ngiệm nghiệm lại ở bệnh viện ký sinh trung Quy nhơn vẫn bị OD = 1/800. Sau đó tôi uống thêm albenazol 15 ngày. 3 tháng tiếp theo, tức là hiện nay thì cơ thể tôi vẫn mệt mỏi, mất ngủ, đi vệ sinh lỏng vào buổi sáng. Xin bác sỹ chỉ cho phác đồ điều trị tốt. Xin cảm ơn và mua thuốc ở đâu.
Trả lời: Chúng tôi xin chia sẻ với nỗi lo lắng của bạn và bệnh tính của bạn khi nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo, rất tiếc câu hỏi này đến với chúng tôi trong năm nay là khi Viện chúng tôi đã triển khai trả lời kết quả xét nghiệm theo mật độ quang OD chứ không còn trả lời theo 1/800 hay 1/1.600,…do vậy có thể bạn đã xét nghiệm bên ngoài chứ không phải ở Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn. Hiện nay tình trạng xét nghiệm trên thị trường và tại các cơ sở y tế nhà nước nói chung và cơ sở xét nghiệm và điều trị tư nhân nói riêng rất phức tạp và không có một ngưỡng thống nhất nào cả, do vậy các xét nghiệm trên liệu rằng bạn đã có nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo hay chưa thì chúng tôi không dám chắc. Hơn nữa nếu bạn nhiễm thật sự thì với các phác đồ thuốc như trên có lẽ chẳng còn ký sinh trùng nào tồn tại trong đường tiêu hóa của bạn nữa. Nên dấu chứng đi cầu rối loạn của bạn có thể do một số nguyên nhân khác gây nên chứ không phải do ấu trùng giun đũa chó mèo. Nên giờ đây, chúng tôi chỉ khuyên bạn nên đến Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn để thăm khám trở lại, khi đi nhớ mang theo các xét nghiệm và đơn thuốc đợt trước và đến đúng địa chỉ Viện là 611B Nguyễn Thái Học thành phố Quy Nhơn hoặc 27 Lý Thái Tổ Thành phố Q!uy Nhơn (cổng sau của Viện).
Thân chào và chúc sức khỏe!
Lê Cẩm T. 26 tuổi, TT Cái Bè, Tiền Giang, 09082….
Hỏi: Xin cảm ơn các bác sĩ đã một lần trả lời cho tôi rất đầy đủ về căn bệnh viêm tai giữa của mẹ tôi, nay tôi xin hỏi tôi đã 28 tuổi mang thai con so được 4 tháng này, nhưng hai tuàn nay tôi bị ngứa ở vùng quanh rốn lan ra toàn bụng và hai ống chân rất nhiều, tôi đi xét nghiệm giun sán ở đại học Cần Thơ không thấy bị nhiễm giun sán nào cả. Xin bác sĩ cho tôi lời khuyên và cách phòng tránh. Tôi và gia đình xin cảm ơn!
Trả lời: Liên quan đến câu hỏi của bạn, chúng tôi xin chia sẻ một số kiến thức liên quan đến sản phụ khoa có liên đới đến ngứa của bạn trong thời gian mang thai. Sẽ không có gì là bất thường nếu như bạn cảm thấy ngứa khi mang thai cả, đặc biệt ngứa vùng quanh eo và ngực đang phát triển và biến đổi trong suốt thời gian bạn mang thai do da vùng tại các nơi đó căng ra. Sự thay đổi hormone cũng là vấn đề. Một số phụ nữ tìm thấy trong lòng bàn tay, bàn chân của họ có bị ngứa. Tình trạng này có thể gây ra bởi một sự gia tăng hàm lượng estrogen. Nó thường biến mất ngay sau khi sinh em bé. Bạn cũng có thể có gì đó gây cho bạn ngứa như da khô và nó sẽ ngứa hơn khi mang thai vifsuwj rạn nứt da do căng da bắt đầu thai lớn. Eczema thường nặng hơn trong thời gian mang thai, mặc dù một số phụ nữ có thể cải thiện tình trạng này. Với bệnh vảy nến thì tình trạng ngược lại: nhiều phụ nữ báo cho biết triệu chứng nghiêm trọng của họ lại ít hơn trong suốt quá trình mang thai, trong khi một số khác lại cho răng phụ nữ mang thai có tình trạng vảy nến tệ hơn. Trong thời gian mang thai, nhiều phụ nữ bị ngứa ở các vùng da bụng, ngực, đùi... và cơ quan sinh dục. Nguyên nhân chính là do sự căng giãn da quá mức và sự thay đổi nội tiết trong cơ thể. Những vị trí thường gặp là vùng bụng (do bào thai phát triển), 2 bầu vú, cánh tay, mông, đùi, cẳng và bàn chân (do sự đè ép của thai lên tĩnh mạch chủ dưới, gây ứ trệ tuần hoàn chi dưới, gây phù chân); do tăng chuyển hóa cơ bản và tăng sinh mạch máu ngoài da khi mang thai. Điều này làm các sản phụ tăng tiết mồ hôi và da trở nên nhạy cảm hơn với những kích thích bên ngoài; do viêm nang lông trong thai kỳ gây ngứa ở những vùng có lông như đầu, mặt, nách, bộ phận sinh dục... Cho dù ngứa do nguyên nhân gì, bạn cũng không nên gãi. Có thể giảm những triệu chứng khó chịu trên da bằng một số biện pháp sau: mặc quần áo bằng vải cotton và rộng rãi (kể cả đồ lót); tránh ra ngoài lúc oi bức; tắm với nước ấm để giúp giảm ngứa; tránh dùng các loại xà phòng hay dung dịch tẩy rửa mạnh, nhiều bọt và quá thơm. Một số trường hợp có thể chỉ được tắm bằng nước chứ không dùng xà phòng; uống nhiều nước; giữ khô và sạch vùng sinh dục; dùng các loại kem làm ẩm da và mềm da toàn thân hay tại chỗ để làm mềm, dịu đi làn da khô và bong tróc.
Làm thế nào để giảm ngứa khi mang thai? Điều này còn lệ thuộc một phần vào nguyên nhân. Nếu tình trạng ngứa của bạn chỉ từ do căng da hay khô da, thì biện pháp đơn giản có thể làm cho bạn giảm ngứa chính là: Tránh tắm dưới vòi nước nóng, có thể làm cho da khô hơn và làm tình trạng thêm tệ hơn. Sử dụng các loại xà phòng không có hương thơm nhẹ, đôi khi hương thơm gây ra dị ứng ngứa hơn và đảm bảo rửa trôi xà phòng một cách sạch sẽ trước khi lau khô; Bạn có thể dùng chế phẩm tắm làm từ cháo bột yến mạch tắm mua tại các hiệu thuốc; Dùng nhiều chất giữ ẩm không mùi thơm sau khi bạn tắm vô xong; Tránh đi ra ngoài nhiều khi trời nắng nóng vì sức nóng sẽ làm nặng thêm tình trạng ngứa; Mặc đồ quần áo rộng chất liệu cotton. Nếu bạn có các ban đỏ nghiêm trọng hay ngứa nhiều, thì các biện pháp trên không đủ làm giảm ngứa. có thể dùng thêm một só thuốc chống ngứa khác không gay hai cho thai nhi. Bạn có thể tham khảo thêm trang tin “Itchy skin during pregnancy” từ Hội sản phụ khoa thế giới 2012.Thân chúc bạn khỏe!
Võ Thanh T. 37 tuổi, TP. Hồ Chí Minh
Hỏi: Xin chào ban biên tập Viện Sốt rét Quinhon, tôi năm nay 37 tuổi, làm nghề mua bán, nhưng hơn 1 năm nay tôi thỉnh thoảng hay bị mày đay, nổi mẩn ngứa và đôi lúc sưng môi, miệng, thân mình, nhiều lúc mổi lên từng cục hòn trên thân minh, sau đó lặn và vài tháng sau bị trở lại. Tôi đã cẩn thận đi khám và điều trị rất nhiều bệnh viện lớn trên thành phố HCM nhưng ở đâu tôi cũng nhận được trả lời là cơ địa dị ứng, bệnh dị ứng và cần kiêng khem các tác nhân gây dị ứng. Tôi không biết cầu cứu ai, trong cậy vào các bác chỉ ra một số nguyê nhân gây dị ứng. Kính cảm ơn!
Trả lời: Thân chào bạn và thân chúc bạn sức khỏe, dị ứng chỉ là các khó chịu mà ít khi gây nghiêm trọng, đặc biệt trên người có cơ địa như thế. Theo một số đồng nghiệp chuyên ngành dị ứng miễn dịch lâm sàng cho biết Dị ứng là một phản ứng quá mức của hệ thống miễn dịch khi cơ thể tiếp xúc với những chất lạ. Gọi là quá mức vì các chất lạ này đều được cơ thể nhận biết và vô hại đối với những ai không bị dị ứng. Còn cơ thể của người bị dị ứng sẽ nhận ra các chất lạ và sẽ khởi động một phần hệ thống miễn dịch. Các chất gây nên hiện tượng dị ứng được gọi là dị nguyên. Các dị nguyên bao gồm bụi, phấn hoa, mốc, thực phẩm... Có thể hiểu, dị nguyên là những chất lạ đối với cơ thể và có thể gây nên phản ứng dị ứng ở một số người. Khi dị nguyên tiếp xúc với cơ thể những người bị dị ứng thì sẽ kích hoạt hệ thống miễn dịch để tạo nên các phản ứng dị ứng. Những người như thế được gọi là quá mẫn cảm. Dưới đây là 3 trong số những dị ứng dễ gặp.
Dị ứng thực phẩm
Dị ứng thực phẩm có thể xảy ra với bất cứ ai, vào bất cứ độ tuổi nào. Khi bị dị ứng thực phẩm, người bệnh sẽ có các dấu hiệu rất dễ nhận biết. Ở ngoài da thì nổi mẩn, mề đay, ngứa, sưng đỏ, mạch máu sưng phồng. Ở hệ thống tiêu hóa thì môi, miệng và cuống họng sưng phồng, đầy bụng, nôn mửa, bụng đau cuộn, tiêu chảy. Ở hệ thống hô hấp thì khó thở, suyễn, khò khè, ho, nghẹt mũi, chảy nước mũi... Những phản ứng của dị ứng thực phẩm có thể xảy ra ngay khi ăn những loại thực phẩm dị ứng, hoặc sau vài giờ, có khi vài ngày sau đó. Ở những người có cảm ứng quá mạnh, chỉ cần ngửi hoặc sờ mó vào thực phẩm là có thể bị ngay dị ứng. Nếu bạn đã từng bị dị ứng thực phẩm, trước khi ăn bất cứ món gì, nhất là ở tiệm, hãy hỏi kỹ về món ăn định chọn. Và nhớ mang theo mình thuốc chống dị ứng để phòng trường hợp bất trắc.
Viêm mũi dị ứng
Viêm mũi dị ứng là hiện tượng mũi bị viêm, sưng tấy do dị ứng với các tác nhân trong và ngoài cơ thể như bụi, khói, lông, tơ, thời tiết, nhiệt độ, độ ẩm, áp suất không khí... Các dấu hiệu điển hình là bệnh nhân ngứa mũi, họng và mắt, hắt hơi thường xảy ra vào buổi sáng, giảm nhiều vào buổi trưa và buổi tối, chảy nước mũi trong, sau đó thì có màu vàng hoặc trắng đục do bị bội nhiễm, nghẹt mũi thường xảy ra sau một tràng hắt hơi và kèm theo một số triệu chứng phụ như nhức đầu, ho, đau họng và có thể sốt nhẹ. Nếu bị viêm mũi dị ứng theo mùa bạn nên ở trong nhà, đóng các cửa sổ; sử dụng máy lạnh thông khí, tránh sử dụng quạt vì nó có thể mang các dị nguyên bên ngoài vào; tắm hoặc thay quần áo sau khi đi ra ngoài, tránh phơi quần áo ngoài trời.
Dị ứng mắt
Nhiều người cho rằng, da, mũi mới dễ bị dị ứng, chứ mắt, do luôn có nước mắt “bảo vệ” nên khó nhiễm bệnh. Nhưng trong thực tế, mắt thuộc nhóm cơ quan có nguy cơ cao bị dị ứng do mắt thường xuyên tiếp xúc với môi trường. Không những thế, do phần bên ngoài của mắt lại luôn ẩm ướt, nên khả năng bám dính và kích ứng của các kích thích và dị nguyên sẽ tăng lên. Nhờ có nước mắt, các dị nguyên có thể nhanh chóng bị rửa trôi, nhưng chỉ cần một thời gian rất ngắn, chúng cũng đã có thể gây ra các biểu hiện dị ứng tại mắt. Người ta chia dị ứng mắt thành nhiều dạng: viêm kết mạc dị ứng; viêm giác mạc; viêm bên trong nhãn cầu...
Các viêm nhiễm tại mắt có thể là do các nguyên nhân sau: dị ứng phấn hoa, viêm mũi xoang dị ứng, dị ứng thức ăn, dị ứng thuốc, hen, chàm, mất cân bằng dinh dưỡng, hóa chất, dùng mỹ phẩm bừa bãi... trong đó dị ứng mắt theo mùa là bệnh nhẹ, chỉ gây ngứa ngáy, mắt đỏ, chảy nước mắt. Cơ nguyên dị ứng mắt là phản ứng do tế bào mast cell bị kích thích bởi Immunoglobin E, khởi sự do bụi dị ứng sinh ra. Những chất trung gian từ tế bào mast cells như histamine, prostaglandins, leucotrienes và kinins lần lượt kích thích dây thần kinh, làm nở mạch máu, tiết ra chất nhờn, làm mắt ngứa, cay và đỏ, sưng thành bọng nước trong mắt và ra ghèn. Khi bị di ứng mắt, cách tốt nhất là phải loại trừ nhanh chóng các dị nguyên ra khỏi mắt. Bệnh nhân không nên dùng tay dụi mắt vì sẽ kích thích tế bào mast cells làm bệnh nặng thêm. Bệnh nhân có thể rửa mắt bằng nước lạnh, nước muối sinh lý, nước mắt nhân tạo (nếu dùng nước mắt nhân tạo mà còn bị đau mắt thêm, hay đỏ mắt hơn, hay bị kích thích thì nên ngưng dùng). Chườm lạnh cũng là phương pháp hữu hiệu để giảm phù mi, giảm ngứa và kích thích do làm co mạch và ổn định màng tế bào có chức năng miễn dịch. Để phòng dị ứng, bệnh nhân phải tránh tiếp xúc với những dị nguyên, chất kích thích có thể gây dị ứng cho mắt.