Các cơ quan thông tin, báo chí trong thời gian qua đã đưa tin về loài ve đốt máu người có khả năng truyền bệnh sốt Q và bệnh Lyme. Vậy bệnh sốt Q và bệnh Lyme là bệnh có những đặc điểm như thế nào?
Bệnh sốt Q
Trước đây, khi phát hiện một loại bệnh mới xuất hiện gây triệu chứng sốt nhưng không rõ, các nhà khoa học không biết bệnh này là bệnh gì nên lúc bấy giờ đã tạm đặt tên là bệnh sốt Q (Query, Question: có nghĩa là vấn hỏi). Đây là một loại bệnh nằm trong nhóm bệnh bị nhiễm Rickettsia do ve truyền. Bệnh sốt Q do mầm bệnh Rickettsia burnetii , còn gọi là Coxiella burnetii gây nên. Đầu tiên, bệnh được phát hiện ở vùng Queensland, Australia; nó phân bố rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới và thường thấy ở các lò mổ, các nhà máy xử lý và đóng thịt hộp, các phòng thí nghiệm, các nông trại nuôi gia súc, gia cầm. Bệnh do loài ve Rhipicephalus, Dermacentor truyền và cũng có thể lây lan qua đường hô hấp hoặc đường tiêu hóa. Người bị nhiễm bệnh chủ yếu do việc dùng sữa và thịt được sản xuất ở các chuồng trại bị ô nhiễm mầm bệnh hoặc hít phải phân khô của loài bọ chét bị nhiễm bệnh trong lúc lao động, làm việc tại các chuồng trại chăn nuôi gia súc.
Khi người bị nhiễm bệnh, triệu chứng xuất hiện đột ngột với cơn sốt kéo dài khoảng vài tuần, người bệnh có cảm giác khó chịu, đau nhức cơ khớp, đau đầu dữ dội và ớn lạnh. Đôi khi có phát ban toàn thân. Tỷ lệ tử vong khoảng từ 25 đến 20% nếu người bệnh không được phát hiện và điều trị kịp thời.
Bệnh Lyme
Bệnh này còn được gọi là bệnh phát ban kinh niên, một loại bệnh nặng và thường gây nên suy nhược cơ thể. Mầm bệnh là xoắn khuẩn Borrelia burgdorferi được phát hiện đầu tiên vào năm 1975 tại làng Lyme, Hoa Kỳ. Bệnh xảy ra chủ yếu ở vùng ôn đới phía Bắc địa cầu như Trung Quốc, châu Mỹ, châu Âu và Liên Xô cũ... Ở Việt Nam, vào năm 1990, bệnh Lyme được ghi nhận trên một bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện 103.
Bệnh do loài ve thân cứng Ixodiae truyền, phổ biến nhất là vào mùa hè khi có nhiều thanh trùng ve hoạt động đốt máu. Các loài gặm nhấm nhỏ, đặc biệt là chuột, đóng vai trò truyền bệnh; trong khi đó các loài động vật lớn chủ yếu đóng vai trò vật chủ nuôi dưỡng quần thể ve. Ấu trùng ve có thể nhiễm mầm bệnh trong khi đốt máu chuột, thanh trùng và ve trưởng thành có thể có vai trò truyền bệnh trong những lần đốt máu tiếp theo. Tại những vùng ôn đới phía bắc bán cầu, bệnh Lyme đã trở nên phổ biến khi những đàn hươu, nai tăng lên và thích nghi với cuộc sống gần người.
Bệnh phát triển qua 3 giai đoạn. Giai đoạn cấp tính giống như bệnh cảm cúm sau khi bị nhiễm bệnh từ 10 đến 15 ngày; tại chỗ ve đốt máu bị nổi các nốt ban đỏ lan rộng ở khoảng 50% số bệnh nhân; kèm theo sốt là mệt mỏi toàn thân và đau nhức cơ khớp. Giai đoạn lan vào khớp xảy ra vài tuần, thậm chí vài tháng sau khi bị ve đốt máu gây viêm các khớp lớn như đầu gối, khuỷu tay, viêm cơ tim, viêm màng trong tim, cuối cùng bị suy tim nhất là suy tim phải, tổn thương ở mắt, liệt mặt, viêm não và kèm theo loạn thần; ở giai đoạn này tỷ lệ tử vong có thể chiếm 15%. Giai đoạn mạn tính xảy ra sau vài năm, thường để lại các di chứng trầm trọng như bị mòn sụn, viêm khớp kinh niên và rối loạn chức năng thần kinh cơ không hồi phục được.