Ký sinh trùng ở môi trường biển (Marine Parasitology) là một lĩnh vực quan trọng về khoa học đại dương biển cả. Vì các mối liên kết chặt chẽ với các lĩnh vực khác trong khoa học biển như ngư nghiệp (fisheries), nuôi trồng hải sản (mariculture), sinh thái của cá (fish ecology) và giám sát môi trường biển, nên ngành ký sinh trùng biển nên được nhìn nhận trong ngữ cảnh như một khoa mục về khoa học biển.
Ký sinh trùng đóng một vai trò chính trong đa dạng sinh học của biển, các vật chủ nhiễm ở tất cả các cấp cung ứng thức ăn khác nhau. Sự phát triển của ngành nuôi trồng thủy sản, liên quan và tác động lên quần thể về khía cạnh sức khỏe của cá và có thể sử dụng ký sinh trùng như các sinh vật dự báo sinh học (biological indicator organisms) khiến cho tăng chậm lợi nhuận trong vùng biển đó. Các và các sản phẩm biển là nguồn protein quan trọng và góp phần rất lớn trong trong cung cấp một nguồn thực phẩm trên toàn thế giới. Sự ô nhiễm hoặc xuống cấp của môi trường biển là nguy cơ lớn đe dọa giảm sản lượng cá và khi tăng sản lượng ngư nghiệp dường như lệ thuộc vào sự nuôi dưỡng của các sinh vật biển trong phạm vi hẹp hoặc rộng của nuôi trồng thủy sản. Một mô hình nuôi trồng thủy sản lớn dẫn đến tăng nguy cơ nhiễm trùng bởi các tác nhân gây bệnh như nấm, virus, vi khuẩn và ký sinh trùng.
Ký sinh trùng là một thành tố không thể thiếu của mỗi hệ sinh thái
Đại diện như một yếu tố chính trong đa dạng sinh học toàn cầu. Một danh sách Vật chủ-Ký sinh trùng đề nghị cho biết có có ít nhất 3-4 ký sinh trùng đa bào/mỗi loài cá biển được nghiên cứu trong một môi trường đặc biệt. Điều này dẫn đến một ước tính rấ thận trọng. Theo các tác giả Klimpel, Palm, Seehagen và Rosenthal (2001) cho biết rất nhiều ký sinh trùng đa bào ở cá biển tính toán này dựa trên nền số liệu nghiên cứu 13.500 loài cá được biết hiện tại sống trong nước lợ hoặc nước biển. Ký sinh trùng trong cá biển là mối quan tâm của cộng đồng nếu chúng được phát hiện còn sống hoặc đã chết bên trong các thực phẩm dự kiến là cho người tiêu dùng.
Bên cạnh nhiễm các ký sinh trùng còn đang sống, các tác nhân gây bệnh khác đã chết hoặc vẫn nằm trong mô cá có thể gây hại cho người tiêu dùng do gây ra các phản ứng dị ứng. Sự xuất hiện ghê gớm là khi cá nhiễm nặng ký sinh trùng và phân phối trên thị trường quốc tế, sự có mặt của chúng trong hệ cơ có thể làm cho người tiêu dùng khó chịu. Do vậy, ký sinh trùng góp phần quan trọng vào làm tăng hay giảm kinh phí và sản lượng cũng như lợi nhuận từ cá.
Ký sinh trùng ở biển phải được xem như tác nhân gây bệnh:
Ký sinh trùng ở biển có thể ảnh hưởng khác nhau trên sức khỏe của cá, chúng có thể nhiễm trên tất cả cơ quan, tùy thuộc vào vị trí và cường độ nhiễm nhiều hay ít. Một số lớn ảnh hưởng không chỉ bản thân cá mà còn tác động không nhỏ lên hệ sinh thái biển cả. Một điều thú vị, các tác nhân gây bệnh và ký sinh trùng chưa được đưa vào mô hình để giám sát động lực của quần thể cátrong lĩnh vực sinh học biển, chưa được xem là một mảng cần quản lý vì tầm quan trọng thương mại trên toàn cầu khi đánh giá đến sản phẩm biển bị đe dọa.
Ký sinh trùng ở cá là chỉ điểm sinh học quan trọng
Để mô tả một mô hình di cư của quần thể cá trên phương diện dinh dưỡng, tương tác phả hệ di truyền cũng như ô nhiễm và tình trạng thiếu ô xy trong nước. Trong vấn đề sinh học biển, ký sinh trùng trên cá được sử dụng như một yếu tố phân biệt. Các loài sống lâu như giun sán dạng endoparasitic có thể cho thông tin về di trú theo mùa của các vật chủ của chúng và sự di trú của các nhóm tuổi cũng khác nhau; Trong khi đó, các loài sống ngắn hơn, với một chu kỳ sinh học trực tiếp và tỷ lệ sinh sản cao như các ngoại ký sinh đơn bào (protozoan ectoparasites) và các lòai sán lá ký sinh trên cá (monogenean trematodes) có thể cho biết thông tin về tình trạng môi trường. Nếu nắm bắt và hiểu biết bề đa dạng về loài, chu kỳ sinh học và nhu cầu sinh thái khác nhau của các laòi ký sinh trùng ở cá, thông tin thêm sẽ là dữ liệu bổ sung cho chỉ điểm sinh học biển. Tất nhiên, khi đó sẽ cung cáp nhiều thông tin bổ ích cho toàn bộ hệ sinh thái biển.
Ký sinh trùng cá biển góp phần vào lĩnh vực khoa học biển phong phú.
Những nghiên cứu về động vật học như là công cụ hỗ trợ cho việc phân loại, sắp xếp, bổ sung hình thái học và sự phát sinh giống loài thông qua nghiên cứu phả hệ của các ký sinh trùng ở biển vẫn luôn là mối quan tâm đầu, nếu có thể sẽ lấp đầy các khỏang trống về hệ động vật tự nhiên, bao gồm ký sinh trùng biển. Trong quá trình nghiên cứu có sử dụng phương pháp học cổ điển như nghiên cứu về hình thái học hoặc sử dụng kính hiển vi điển tử quét (SEM_Scanning Electron Microscopy hoặc TEM_Transmission Electron Microscopy), các kỹ thuật hiện đại về sinh hóa và sinh học phân tử để hiểu biết hơn về mối quan hệ phả hệ di truyền cũng như đặc tính sinh lý và hình thái học của các loài khác nhau. Ngoài ra, các chủ đề liên quan đến liến hóa ở vật chủ cá với ký sinh trùng hoặc tương tác giữa vật chủ và ký sinh trùng (đặc hiệu vị trí của vật chủ, miễn dịch học và tính sinh bệnh) vẫn chưa được khám phá đầy đủ. Ngay cả loài cá vây tay Latimeria chalummnae là một loại cá có liên quan đến ký sinh trùng rất mật thiết (Smith,1939) cũng chưa rõ. Do vậy, ngành ký sinh trùng biển hiện đại có thể giúp xác định, bổ sung các chủ đề khác nhau làm rõ bức tranh còn khiếm khuyết nhiều chỗ của lĩnh vực ký sinh trùng biển.