Ngành y tế thường nói đến bệnh viêm gan A và viêm gan B, đồng thời truyền thông giáo dục sức khỏe, vận động một số đối tượng người dân và nhiều người ở các nhóm tuổi khác nhau dễ có nguy cơ mắc bệnh cần tiêm chủng để phòng bệnh, bảo vệ sức khỏe an toàn khi tiếp xúc với mầm bệnh đầy ắp ở trong môi trường sống chung quanh. Vậy bạn biết gì về bệnh viên gan A và viêm gan B ?
Đặc điểm của bệnh viêm gan A
Viêm gan A là một bệnh viêm gan do virus, đây là bệnh nhiễm virus cấp tính thường xảy ra ở trên toàn thế giới và do loại virus viêm gan A gây nên. Virus viêm gan A (Hepatitis A virus, viết tắt tiếng Anh là HAV) không có vỏ bọc, hình đa giác, có kích thước nhỏ, thuộc nhóm Hepatovirus, một thành viên của họ Piconarviridae. Từ xa xưa, các vụ dịch viêm gan A thường xảy ra trong các cuộc chiến tranh. Hiện nay, bệnh vẫn |
Virus viêm gan A (Hepatitis A virus-HAV) |
chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Bệnh viêm gan A ở trẻ em thường không có biểu hiện lâm sàng, nhưng ở người lớn bệnh thường gây vàng da, vàng mắt. Bệnh viêm gan A cấp tính nặng đã được ghi nhận ở trẻ nhỏ nhưng ít có thể nặng ở tuổi trung niên, người cao tuổi và không gây viêm gan mạn tính. Hiếm khi có biến chứng của bệnh viêm gan A trong lúc mang thai. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy bệnh viêm gan A có thể trở thành dịch lưu hành. Virus viêm gan A được duy trì trong tự nhiên bằng phương thức virus lây truyền mầm bệnh từ người bệnh đến những người lành. Nguồn lây chủ yếu là từ những người bệnh. Bệnh viêm gan A lây truyền qua đường tiêu hóa, chủ yếu là lây từ người sang người qua đường phân và miệng. Tác nhân gây bệnh xuất hiện trong phân vào khoảng 1-2 tuần trước khi có biểu hiện lâm sàng.
Sự lây truyền bệnh có liên quan đến nguồn nước và thực phẩm bị nhiễm bẩn, nhất là do ăn phải các loài sò, trai, ốc, hến ... chưa được nấu chín hoặc ăn các loại thực phẩm khác như rau sống ... không được rửa sạch. Các dụng cụ cá nhân, quần áo của người bệnh có thể là nguồn lây nhưng ít quan trọng. Trong một số trường hợp cá biệt, nguồn lây có thể từ máu hoặc thành phần máu cô đặc lây từ người cho máu đang trong thời kỳ ủ bệnh viêm gan A. Dịch bệnh lưu hành chủ yếu ở những vùng sinh hoạt kém vệ sinh, điều kiện kinh tế khó khăn và tỷ lệ phát triển dân số cao. Các nước trên thế giới đều có thể có người bị mắc bệnh nhưng số mắc nhiều nhất là ở châu Á, châu Phi, châu Âu và Đông Âu. Ở Việt Nam, bệnh chủ yếu được phát hiện ở trẻ em. Hiện nay, nhóm người sinh hoạt tình dục, kiểu luyến ái tình dục qua đường miệng, nhóm người du lịch đến các vùng có dịch bệnh lưu hành có nguy cơ bị nhiễm virus viêm gan A, những người du lịch lang thang thì khả năng mắc bệnh cao hơn. Ngoài ra, bệnh nhân và nhân viên y tế cũng là nhóm người có nguy cơ dễ mắc bệnh viêm gan A. Đặc biệt, bệnh viêm gan A cấp tính có thể xảy ra ở những người có sẵn bệnh gan, bệnh viêm gan B mạn tính; bệnh sẽ có nguy cơ diễn biến tối cấp với các biến chứng trầm trọng gây tử vong cao.
Đặc điểm của bệnh viêm gan B
|
Mô hình cấu trúc virut viêm gan B |
Viêm gan B cũng là một bệnh viêm gan do virus thuộc nhóm virus Hepadna. Virus viêm gan B viết tắt theo tiếng Anh là HBV (Hepatitis B virus). Đây là một bệnh phổ biến trên thế giới, nhiều nhất là ở châu Á, châu Phi và Mỹ La tinh. Bệnh lây truyền qua đường máu, đường tình dục và lây từ mẹ sang con chủ yếu trong thời kỳ chu sinh. Biểu hiện lâm sàng của bệnh ở thời kỳ khởi phát giống như cảm cúm (còn gọi là biểu hiện giả cúm) như sốt, mệt mỏi, chán ăn, đi tiểu ít và nước tiểu sẫm màu. Người bệnh rất mệt mỏi nhưng tình trạng nhiễm khuẩn lại rất thô sơ.
Trong thời kỳ toàn phát, bệnh nhân thường có biểu hiện vàng mắt, vàng da, có thể có phát ban dạng sởi trên da. Khám bệnh có thể thấy gan to, đôi khi có lách to. Xét nghiệm máu thường thấy men gan tăng cao, nhất là men SGPT, có thể cao gấp 5 đến 10 lần so với bình thường; Bilirubin máu tăng. Phần lớn các trường hợp viêm gan B cấp tính diễn biến trong vòng từ 4 đến 6 tuần rồi khỏi về mặt lâm sàng. Theo quy ước, viêm gan B cấp tính sẽ được ổn định trong vòng 6 tháng. Bệnh viêm gan B có thể diễn biến thành viêm gan mạn tính, xơ gan và ung thư gan nguyên phát với các tỷ lệ khác nhau tùy từng khu vực và sự đáp ứng miễn dịch của cơ thể bệnh nhân.
Đối tượng khuyến cáo sử dụng vaccin phòng bệnh viêm gan A và B
Vaccin phòng bệnh viêm gan A được khuyến cáo và chỉ định tiêm cho bất kỳ ai có nguy cơ bị nhiễm bệnh như cô giáo nuôi dạy trẻ, giáo viên và những người có tiếp xúc gần gũi với những trẻ khuyết tật, các nhân viên y tế, những người đồng tính luyến ái, đối tượng nghiện và tiêm chích ma túy, người được ghép thận ... Vaccin này cũng khuyến cáo chống chỉ định dùng cho những người có mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào của vaccin, đang bị sốt vì bất kỳ nguyên nhân gì. Mặc dù chưa có ghi nhận nào về tác hại của vaccin phòng bệnh viêm gan A đối với thai nhi nhưng để bảo đảm an toàn, khuyến cáo cũng không nên tiêm cho phụ nữ có thai.
Vaccin phòng bệnh viêm gan B được khuyến cáo và chỉ định sử dụng rộng rãi cho nhiều nhóm đối tượng cần được bảo vệ. Tiêm vaccin cho những người trước khi tiếp xúc với nguồn bệnh như trẻ sơ sinh và mọi trẻ em, các đối tượng thuộc nhóm nguy cơ cao như người mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs), người đồng tính luyến ái hoặc tình dục lưỡng tính, có quan hệ tình dục với người bị nhiễm virus viêm gan B dương tính, người nghiện và tiêm chích ma túy, những người tiếp xúc với máu và dịch sinh học của bệnh nhân do rủi ro nghề nghiệp như nhân viên y tế, nhân viên phòng xét nghiệm, nha sĩ, những người khác có liên quan đến việc chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân viêm gan, người được lọc máu nhiều lần, người sống trong vùng dịch lưu hành cao, người đi du lịch quốc tế. Vaccin viêm gan B cũng cần được tiêm chủng cho những đối tượng sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh như phụ nữ có thai trong chu kỳ sinh, tất cả phụ nữ có thai nên được xét nghiệm virus và nên tiêm phòng bệnh trong những trường hợp mặc dù thử virus âm tính nhưng có nguy cơ cao bị nhiễm virus như người nghiện và tiêm chích ma túy, người có nhiều bạn tình, người có biểu hiện lâm sàng của bệnh viêm gan; sống ở trong gia đình có người mang virus hoặc bạn tình của người phụ nữ mang thai bị nhiễm virus dương tính. Các phụ nữ mang thai khi xét nghiệm phát hiện có virus viêm gan B dương tính cần phải báo cáo cho cán bộ y tế phụ trách biết để theo dõi, trẻ em được sinh ra từ người mẹ bị nhiễm virus dương tính cũng cần tiêm chủng vaccin phòng bệnh theo quy định của thầy thuốc. Cuối cùng, vaccin phòng bệnh viêm gan B cũng được khuyến cáo, chỉ định tiêm cho những người tiếp xúc với máu bệnh nhân bị bệnh viêm gan B và bị nhiễm bệnh do rủi ro nghề nghiệp. Vaccin viêm gan B được khuyến cáo chống chỉ định tiêm cho những người lành mang trùng và người đã có miễn dịch đối với viêm gan B |
Vaccin phòng bệnh viêm gan A |
 |
Vaccin phòng bệnh viêm gan B |
Các loại vaccin phòng bệnh viêm gan A và B thường được sử dụng
Phòng bệnh viêm gan A thường sử dụng loại vaccin sống giảm độc lực và loại vaccin bất hoạt. Phòng bệnh viêm gan B thường sử dụng loại vaccin được chế tạo từ huyết tương người mang virus viêm gan B và loại vaccin tái tổ hợp áp dụng kỹ thuật công nghệ sinh học tổng hợp. Việc sử dụng vaccin phải có sự chỉ định, giám sát và theo dõi của nhân viên y tế. Về tác dụng phụ, vaccin viêm gan A sau khi tiêm xảy ra phản ứng thường nhẹ và diễn biến trong thời gian ngắn, các phản ứng thông thường là sưng, đỏ và đau tại chỗ tiêm kèm theo sốt, mệt mỏi, nhức đầu, buồn nôn, chán ăn ..., chưa thấy có phản ứng nặng sau khi tiêm vaccin viêm gan A. Đối với vaccin viêm gan B sau khi tiêm đều rất an toàn, rất ít các phản ứng phụ; các phản ứng phụ có thể gặp là sưng đau chỗ tiêm, sốt nhẹ, buồn nôn, chóng mặt, mệt mỏi, đau cơ, khớp. Mặc dù các phản ứng phụ khi tiêm vaccin viêm gan A và vaccin viêm gan B có thể xảy ra nhẹ, thoáng qua nhưng cán bộ y tế và người được tiêm vaccin, cha mẹ hoặc người nhà đi kèm theo không nên chủ quan, phải giám sát chặt chẽ các đối tượng sau khi được tiêm chủng để phát hiện, xử lý kịp thời những tình huống phản ứng phụ không mong muốn có thể xảy ra cần can thiệp, bảo đảm an toàn cho người được tiêm vaccin.