Bệnh Lyme, còn gọi là bệnh phát ban kinh niên do loài ve thân cứng (Ixodiae) truyền xoắn khuẩn Borrelia burgdorfrei gây bệnh. Ve là loài chân đốt hút máu người và động vật, chúng có mặt khắp nơi ở trên thế giới và đóng vai trò vật truyền bệnh của nhiều loại bệnh, trong đó có bệnh Lyme.
Đặc điểm của các loài ve truyền bệnh
Ngoài bệnh Lyme, ve có thể truyền các bệnh khác như sốt hồi quy do ve, sốt đốm vùng núi đá, sốt Q. Nó cũng là vật truyền bệnh cho các động vật nuôi và có thể gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế. Ve có hai loại khác nhau, ve cứng (Ixodiae) gồm khoảng 650 loài và ve mềm (Argasidae) gồm khoảng 150 loài.
Ve có vòng đời gồm một giai đoạn ấu trùng 6 chân và một hoặc nhiều giai đoạn thiếu trùng 8 chân. Các giai đoạn thiếu trùng giống với ve trưởng thành, ở mỗi giai đoạn ve cần hút máu người hoặc động vật để phát triển giai đoạn tiếp theo. Ve trưởng thành dễ dàng nhận biết vì có 4 đôi chân, cơ thể thiếu sự phân đốt rõ ràng; nó sống được vài năm. Trong trường hợp không có thức ăn, nó có thể nhịn đói và cũng sống được vài năm. Cả ve đực và ve cái đều đốt máu nhưng ve đực đốt máu không thường xuyên bằng ve cái, cả hai đều có thể là vật truyền bệnh. Vi khuẩn gây bệnh không những truyền mầm bệnh từ người này sang người khác qua máu khi bị ve đốt mà loài ve cái cũng có khả năng truyền lại tác nhân gây bệnh cho thế hệ sau của ve.
Loài ve thân mềm
Ve thân mềm trưởng thành có đặc điểm bên ngoài dẹt, hình bầu dục, cơ thể dai và nhăn nheo. Phần phụ miệng nằm ở phía dưới cơ thể và không nhìn thấy được từ phía trên. Trứng được đẻ ở những chỗ ve trưởng thành trú ẩn như các khe kẽ trên tường, sàn nhà và ngay cả trong đồ vật dùng. Cả ấu trùng, thiếu trùng và ve trưởng thành đều có khả năng tìm vật chủ để đốt máu, sau khi đốt máu khoảng chừng 30 phút, ve hút no máu và rơi xuống đất. Hầu hết các loài ve thân mềm đều có thể sống được hơn một năm giữa hai lần đốt máu, có một vài loài có thể sống hơn 10 năm.
 |
Biểu hiện của bệnh Lyme do ve gây ra là chứng phát ban “mắt bò”. (ảnh:http://www.contrungviet.com) |
Ve thân mềm sống cách biệt với vật chủ, phát hiện phổ biến ở các tổ và nơi ở của động vật mà chúng đốt máu. Một vài loài như ve gà, ve bồ câu ... có thể đốt người khi không có vật chủ ưa thích. Những loài ve thân mềm thường đốt máu người được phát hiện ở chung quanh làng và ngay cả ở trong nhà. Tập tính của loài ve thân mềm gần giống với loài rệp, chúng rời khỏi vị trí trú ẩn vào ban đêm để tìm đốt máu người và động vật. Một số loài hay trú ẩn ở trên các đường đi trong các nhà nghỉ, những nơi cắm trại, các hang động, khe đá, kẽ đá ... Loài ve thân mềm Omithodoros moubata là vật truyền bệnh sốt hồi quy do ve.
Loài ve thân cứng
Ve thân cứng trưởng thành có hình bầu dục, dẹt và dài; có thể nhìn thấy phần phụ miệng ở phía trên cơ thể, khác với loài ve thân mềm. Ve thân cứng có một tấm khiên, gọi là scutum ở sau đầu kéo dài về phần thân và cấu trúc này chỉ có ở giai đoạn thiếu trùng. Trứng được đẻ vào đất với số lượng lớn. Ấu trùng rất nhỏ, chúng bò lên cỏ cây, khi vật chủ thích hợp đi ngang qua, ấu trùng bò bám vào vật chủ và tấn công đốt máu ở những chỗ thích hợp như tai, mí mắt ... Sau một ngày khi đã hút no máu, chúng rơi xuống đất, tìm nơi trú ẩn và lột xác thành thiếu trùng; thiếu trùng lại đi tìm vật chủ để đốt máu; khi đã hút no máu sẽ lột xác thành con trưởng thành. Loài ve cái trưởng thành bò lên cây cỏ đợi vật chủ thích hợp đi ngang qua sẽ bám lấy để đốt máu và ở lại trên vật chủ từ 1 đến 4 tuần; sau đó rơi xuống đất, tìm chỗ trú ẩn dưới các khe đá, lá cây và đẻ trứng.
Hầu hết các loài ve thân cứng đốt 3 loại vật chủ khác nhau, vật chủ cho các giai đoạn ấu trùng, thiếu trùng và trưởng thành. Tuy nhiên, một vài loài chỉ đốt một hoặc hai vật chủ. Vì ve thân cứng bám vào vật chủ một vài ngày nên nó có thể được mang đi rất xa. Sự kết hợp giữa việc đốt máu những vật chủ khác nhau với việc phát tán khá xa đã phản ánh được tầm quan trọng trong vai trò truyền bệnh của loài ve thân cứng.
 |
Những con ve bám trên da và hút máu(ảnh:http://www.contrungviet.com) |
Bệnh Lyme do ve thân cứng truyền
Bệnh Lyme chủ yếu do loài ve thân cứng Ixodes truyền, phổ biến nhất vào mùa hè khi có nhiều thiếu trùng ve phát triển. Các loài gậm nhấm nhỏ, đặc biệt loài chuột đóng vai trò nguồn bệnh quan trọng; trong khi đó các loài động vật lớn chủ yếu đóng vai trò vật chủ nuôi giữ các quần thể ve. Ấu trùng ve bị nhiễm bệnh trong khi đốt máu chuột, thiếu trùng hoặc ve trưởng thành có thể truyền xoắn khuẩn trong những lần đốt máu tiếp theo. Ở những vùng ôn đới phía bắc bán cầu, bệnh Lyme xảy ra với mức độ lưu hành cao, trở nên phổ biến khi những đàn hươu, đàn nai phát triển tăng lên và vật chủ nguy hiểm này đã có khả năng thích nghi với cuộc sống gần con người. Ở nhiều vùng, bệnh Lyme được phát hiện tại môi trường sống của dân cư ở ngoại thành.
Bệnh Lyme còn được gọi là bệnh phát ban kinh niên, một loại bệnh nặng và thường làm suy nhược cơ thể do xoắn khuẩn Borrelia burgdorfrei gây ra. Bệnh cảnh lâm sàng cấp tính, giống bệnh cúm, có đặc điểm với các nốt ban đỏ lan rộng ở khoảng 50% số bệnh nhân kèm theo sốt, mệt mỏi và đau nhức cơ, khớp. Sau khi bị ve đốt vài tuần hoặc thậm chí vài tháng, có thể phát hiện các triệu chứng sưng và đau ở những khớp lớn như đầu gối, khuỷu tay; viêm não, liệt mặt, tổn thương mắt và viêm cơ tim dù cho triệu chứng ban đỏ có xảy ra trong trường hợp cấp tính hay không. Một số trường hợp, có thể là vài năm sau khi bị ve đốt, bệnh nhân bị biến chứng mòn sụn với triệu chứng viêm khớp mạn tính và rối loạn chức năng thần kinh cơ. Về mặt dịch tễ học, bệnh Lyme lưu hành chủ yếu ở những nước vùng ôn đới phía bắc bán cầu như Trung Quốc, châu Âu, Hoa Kỳ và Liên Xô cũ ...
Khi vào vùng dịch tễ có bệnh Lyme lưu hành, muốn phòng bệnh cần tránh xa nơi có loài ve thân cứng hoạt động, không cho ve đốt máu và phòng chống vật truyền bệnh. Để bảo vệ cá nhân, có thể dùng chất xua đuổi côn trùng xoa trên da, mặc áo quần dài và kín khi có hoạt động ở những chỗ có nhiều ve. Khi người bị ve đốt, cần lấy ve ra khỏi cơ thể ngay trước 24 giờ để tránh nhiễm xoắn khuẩn. Nêu điều trị dự phòng bằng kháng sinh sau khi bị ve có nhiễm xoắn khuẩn đốt máu. Nếu có điều kiện, có thể xác định tình trạng nhiễm xoắn khuẩn ở mẫu vật ve bằng thử nghiệm phân tử.
Khi bị mắc bệnh đã được xác định hoặc nghi ngờ bị nhiễm bệnh Lyme, có thể làm giảm sự tiến triển của bệnh hoặc dự phòng bằng cách điều trị với thuốc Tetracycline hoặc các dẫn xuất như Doxycycline trong thời gian từ 2 đến 4 tuần đối với người lớn. Còn ở trẻ em có thể dùng thuốc Penicilline hoặc các dẫn xuất.
Cảnh báo bệnh ngoại nhập
Hiện nay trong tiến trình hội nhập quốc tế, sự giao lưu, đi lại của cộng đồng con người phát triển khá phổ biến, nhất là vấn đề hợp tác thương mại và du lịch. Thời gian qua, một số bệnh ngoại nhập từ các nước ngoài xâm nhập vào nội địa đã được phát hiện như dịch bệnh SARS, cúm A(H1N1) ... Gần đây, bệnh tả cũng đã du nhập từ Campuchia vào tỉnh An Giang của Việt Nam. Bệnh Lyme do loài ve thân cứng truyền mầm bệnh xoắn khuẩn Borrelia burgdorfrei mặc dù chưa được phát hiện ở nước ta nhưng các cơ sở y tế cũng cần quan tâm đến vấn đề này để phát hiện với cảnh báo bệnh ngoại nhập hoặc bị mắc bệnh từ các nơi khác có bệnh lưu hành trở về.