(Tiếp theo Phần 1)
Ngưỡng tỷ lệ lưu hành được áp dụng trong Hướng dẫn
          Tỷ lệ nhiễm lưu hành ≥ 5% dựa trên ước tính bằng phương pháp xét nghiệm phân, sử dụng kỹ thuật Baermann hoặc nuôi cấy đĩa thạch trên một mẫu phân duy nhất, trong một cuộc khảo sát trẻ em nhóm tuổi đi học (5-14 tuổi). Các phương pháp xét nghiệm phân được ưu tiên vì chúng đảm bảo đo lường tình trạng nhiễm trùng đang hoạt động;
         Lưu ý có nhiều kỹ thuật để chẩn đoán có sẵn và có thể được sử dụng để ước tính tỷ lệ nhiễm trùng S. stercoralis trong quần thể, tùy theo cơ sở hạ tầng phòng xét nghiệm và yêu cầu về chuyên môn khác nhau và tùy theo kỹ thuật. Vì lý do này, nhóm GDG quyết định đưa thông tin về các kỹ thuật chẩn đoán khác nhau và các cách về lấy mẫu, độ nhạy và độ đặc hiệu chẩn đoán sẽ khác nhau giữa các kỹ thuật, ngưỡng phổ biến được áp dụng phải cụ thể cho công cụ chẩn đoán tương ứng. Tóm tắt về các ngưỡng phổ biến thay thế được cung cấp trong bảng dưới đây;
         Có thể sử dụng các xét nghiệm huyết thanh học (kháng thể) đảm bảo chất lượng, để ước tính tỷ lệ nhiễm trùng S. stercoralis nhằm chỉ định sử dụng MDA. Khi tỷ lệ mắc bệnh ≥15% được làm bằng xét nghiệm huyết thanh học đảm bảo chất lượng (hay các thử nghiệm đạt tiêu chí của hồ sơ sản phẩm đích của TCYTTG đối với giun lươn S. stercoralis) trên nhóm trẻ học độ tuổi đi học, xét nghiệm trên được coi là tương đương tỷ lệ nhiễm ≥ 5% khi sử dụng kỹ thuật Baermann hoặc nuôi cấy. Sự hiệu chỉnh này dựa trên ước tính các đặc điểm, độ nhạy, đặc hiệucủa chẩn đoán, chỉ dành cho các xét nghiệm nêu trên;
           Tuy nhiên, một hạn chế của xét nghiệm huyết thanh học là nó có thể đo lường phơi nhiễm trước đó với một tình trạng nhiễm trùng giun lươn đang hoạt động (dù các tài liệu có ghi nhận tình trạng huyết thanh đảo ngược đáng kể sau khi điều trị đối với nhiều xét nghiệm kháng thể đối với S. stercoralis). Hơn nữa, hiệu quả chẩn đoán có thể thay đổi tùy theo xét nghiệm kháng thể. 
Vì những lý do này, xét nghiệm kháng thể (Ab) không phải là phương pháp xét nghiệm được ưa chuộng nhưng vẫn là một lựa chọn dễ sử dụng;
Hình 5. Độ chính xác của các phương pháp chẩn đoán trên bệnh phẩm phân
              Nhóm hướng dẫn lưu ý rằng ngưỡng tỷ lệ lưu hành ≥ 5% được xác định dựa trên mẫu từ quần thể trẻ em trong độ tuổi đi học (5-14 tuổi). Nhóm GDG cho rằng tỷ lệ nhiễm S. stercoralis dự kiến sẽ tăng theo tuổi, nghĩa là tỷ lệ tương ứng ở nhóm thanh thiếu niên và người lớn có khả năng cao hơn tỷ lệ được đo ở nhóm trẻ em trong độ tuổi đi học.Nếu một Chương trình Quốc gia quyết định thực hiện khảo sát tỷ lệ lưu hành trên toàn cộng đồng (tức là lấy mẫu những người từ 5 tuổi trở lên, bao gồm cả người lớn), thì ngưỡng tỷ lệ lưu hành trong cộng đồng ≥10% sử dụng soi phân theo kỹ thuật Baermann hoặc nuôi cấy, là một giải pháp thay thế hợp lý cho ngưỡng ≥ 5% được đo lường ở nhóm trẻ em trong độ tuổi đi học.Nếu xét nghiệm huyết thanh học (phát hiện kháng thể) được áp dụng thông qua khảo sát tỷ lệ lưu hành trên toàn cộng đồng, thì ngưỡng tỷ lệ lưu hành ≥ 25% (trong khảo sát cộng đồng, bao gồm cả người lớn).Nếu xét nghiệm huyết thanh (kháng thể) ở nhóm trẻ trong độ tuổi đi học, ngưỡng hợp lý cho tỷ lệ lưu hành ≥ 15%. Sự điều chỉnh này dựa trên ước tính sử dụng các đặc điểm dộ đặc hiệu, độ nhạỵ giả định và xu hướng nhiễm trùng theo độ tuổi;

Hình 6. So sánh độ chính xác của các phương pháp chẩn đoán chung giun lươn S. Stercoralis
Khi đề xuất ngưỡng tỷ lệ, nhóm GDG đã xem xét nhiều nguồn thông tin, bao gồm dữ liệu dịch tễ, nghiên cứu thí điểm, đánh giá của chuyên gia, cân nhắc giám sát và nhu cầu cân bằng các yêu cầu về nguồn lực với tác động dự kiến đến sức khỏe cộng đồng. Nghiên cứu mô hình ước tính tác động dự kiến đến sức khỏe cộng đồng, nhu cầu về nguồn lực và hiệu quả về mặt chi phí của các ngưỡng tỷ lệ mắc khác nhau đối với chiến dịch MDA ngưỡng tỷ lệ mắc được chọn là 5% dự kiến sẽ hiệu quả về mặt chi phí ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình trên nhiều giả định khác nhau về môi trường tự nhiên và giả định về bệnh tật và được dự đoán sẽ có tác động lớn đến sức khỏe cộng đồng, đồng thời khả thi để đo lường bằng các phương pháp giám sát hiện tại.
         Hơn nữa, trong các bối cảnh nhiễm S. stercoralis vượt quá ngưỡng tỷ lệ mắc này, bệnh giun lươn là gánh nặng lớn đối với sức khỏe cộng đồng.
Hình 7. Độ chính xác của các phương pháp chẩn đoán huyết thanh với giun lươn
Bảng 1. Ngưỡng tỷ lệ lưu hành bệnh S. stercoralis theo dân số và test chẩn đoán khuyến cáo áp dụng triển khai MDA
   |   Phương pháp xét nghiệm   |    Ngưỡng đánh giá xét nghiệm   và nhóm tuổi cần triển khai can thiệp IVM   |  
  |   5- 14 tuổi   |    Từ 5 tuổi trở lên   |  
  |   - Baermann và nuôi cấy  - Mẫu phân   |    ≥ 5%   |    ≥ 10%   |  
  |   - XN miễn dịch (Kháng thể)  - Mẫu máu   |    ≥ 15%   |    ≥ 25%   |  
 
  
           Liều thuốc IVM được đề xuất là200 μg/kg sử dụng đường uống liều duy nhất;
          Đơn vị thực hiện MDA dự phòng chống lại bệnh giun lươn S. stercoralislà một huyện (khu vực địa lý có dân số khoảng 100.000 - 250.000 người) nhưng có thể thay đổi tùy theo bối cảnh địa phương, bao gồm việc thực hiện ở cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh dựa trên dữ liệu giám sát;
             Thực hiện MDA nên được ưu tiên ở những khu vực có tỷ lệ mắc bệnh giun lươn S. stercoraliscao nhất, nơi mà nó được kỳ vọng sẽ có tác động lớn nhất đến sức khỏe cộng đồng. Can thiệp có thể được đánh giá trong các ưu tiên về sức khỏe của một quốc gia;
             Mặc dù, có bằng chứng hạn chế so sánh tần suất sử dụng MDA khác nhau, nhóm hướng dẫn coi tần suất hàng năm sử dụng MDA bằng thuốc IVM là hiệu quả và khả thi về mặt kỹ thuật;
             Hướng dẫn đưa ra thiết kế nghiên cứukhảo sát tỷ lệ mắc bệnh giun lươn S. stercoralisđể giám sát nhằm đo tỷ lệ mắc bệnh giun lươn S. stercoralissẽ được đưa ra trong các hướng dẫn kỹ thuật, điều này sẽ cần thiết để đưa ra quyết định về chỉ định và hướng dẫn vận hành cho MDA;
             Chương trình MDA phải được tiến hành trong tối thiểu 5 năm. Cần giám sát tỷ lệ nhiễm S. stercoralis sau 5 năm triển khai MDA để thông báo nhu cầu điều trị liên tục, mặc dù giám sát sớm hơn cũng hợp lý. Hướng dẫn thêm về giám sát và dừng các tiêu chuẩn MDA sẽ được đưa ra trong Sổ tay kỹ thuật của TCYTTG;
              Tham vấn tại địa phương với các nhà lãnh đạo và cộng đồng là điều quan trọng để xác nhận tính khả thi của bất kỳ chiến lược y tế công cộng nào. Các nguyên tắc chỉ đạo bao gồm sự đồng ý và chấp thuận được thông báo phải được thực hiện trước khi một Chương trình MDA được triển khai.Điều này phải được thực hiện dựa trên các yêu cầu của quốc gia và bối cảnh địa phương nên có thể khác nhau giữa các chương trình. Ví dụ, trong các cuộc họp cộng đồng và/hoặc phụ huynh với sự đồng ý và chấp thuận bằng lời nói có thể đủ trong một số bối cảnh. Tuy nhiên, các phương pháp tiếp cận đồng ý bằng văn bản có thể được yêu cầu trong một số bối cảnh. 
                Quyết định tham gia MDA phải là tự nguyện đối với tất cả mọi người;
                Các chương trình Quốc gia nên tận dụng các cơ hội để lồng ghép chương trình MDA chống bệnh giun lươn S. stercoralisvào các chương trình y tế công cộng hiện có, đặc biệt là đối với các bệnh NTDs (neglected tropical disease- bệnh nhiệt đới bị lãng quên), như các bệnh giun sán lây truyền qua đất khác, bệnh giun chỉ do Onchocercaspp. và bệnh giun chỉ bạch huyết;
              Nhóm hướng dẫn, lưu ý rằng việc giám sát thường xuyên để có phạm vi bao phủ hiệu quả, đánh giá tác động của can thiệp, sự xuất hiện của tình trạng kháng thuốc và tính an toàn phải là một phần quan trọng của bất kỳ chương trình nào;
             Khuyến nghị của Hướng dẫn hỗ trợ nhu cầu tiếp cận chẩn đoán và điều trị kịp thời bệnh giun lươn S. stercoralis trong bối cảnh lâm sàng, đặc biệt chú ý đến việc xét nghiệm nhiễm trùng S. stercoralis và điều trị trước khi suy giảm miễn dịch hoặc các yếu tố nguy cơ khác có thể dẫn đến nhiễm trùng S. stercoralislan tỏa;
         Nước sạch, vệ sinh chất thải và vệ sinh cá nhân là cần thiết như một biện pháp can thiệp bổ sung để giảm lây truyền giun lươn S. stercoralis.
 Xây dựng khuyến cáo
              Khuyến nghị của hướng dẫn mục tiêulà giảm gánh nặng sức khỏe cộng đồngdo bệnh giun lươn, tỷ lệ nhiễm giun lươn và bệnh nhiễm trùng lan tỏa do giunlươn. Nhóm GDG xác định rằng việc kiểm soát nhiễm S. stercoralis được xác nhận về mặt ký sinh trùng (nhiễm trùng mãn tính, có triệu chứng) là một kết quả y tế công cộng có ý nghĩa dựa trên tỷ lệ mắc bệnh và biến chứng của bệnh lan tỏa.Bằng chứng ủng hộ khuyến nghị sử dụng MDA cho kết quả kết quả giảmlây nhiễm và mục tiêu nhiễm trùng mãn tính giun lươn;
              Nhóm GDG không thấybằng chứng trực tiếp sử dụng MDA dẫn đến giảm tỷ lệ bệnh giun lươn lan tỏa, nhưng cho rằng việc kỳ vọng giảm bệnh giun lươn S. stercoralislan tỏa thông qua việc giảm tỷ lệ nhiễm là hợp lý. Do đó, mức độ chắc chắn của bằng chứng cho thấy sử MDA sẽ làm giảm nhiễm S. stercoralis mãn tính cao hơn mức độ chắc chắn của bằng chứng cho thấy sử dụng MDA sẽ làm giảm bệnh giun lươn lan tỏa.
             Nhóm GDG đã đưa ra khuyến nghị có điều kiện dựa trên chất lượng bằng chứng thấp. Quyết định này phần lớn dựa trên việc xem xét toàn bộ bằng chứng trên nhiều nghiên cứu
Yếu tố liên quan đến khuyến cáo
 Lợi ích:
              Bệnh giun lươn S. stercoralislà gánh nặng bệnh tật toàn cầu, bao gồm bệnh do nhiễm KST và biến chứng hiếm gặp của bệnh giun lươn S. stercoralisnhiễm trùng lan tỏa nhưng dễ dẫn tới tử vong tỷ lệ ước tính lên đến 60%;
              Sử dụng IVM điều trị S. stercoralis kết quả tỷ lệ khỏi khỏi bệnh caovà việc khỏi bệnh sẽ loại bỏ nguy cơ nhiễm trùng lan tỏa trong tương lai cho một cá nhân nếu không có tình trạng tái nhiễm. Nhóm GDG xem xét các tác dụng của IVM trong các nghiên cứu quan sát là đủ lớn và chúng xảy ra trong thời gian tương đối ngắn, củng cố sự tin tưởng vào tác dụng của IVM trong việc chữa khỏi bệnh S. stercoralis;
                MDA sử dụng IVM ở những vùng có lưu hành bệnh đã làm giảm tỷ lệ nhiễm S. stercoralis trong cộng đồng, mặc dù bằng chứng thực nghiệm ở đây chỉ giới hạn ở các nghiên cứu quan sát chất lượng thấp;
             Nhóm GDG đã ngoại suy sử dụng IVM trong chiến lược MDA có khả năng làm giảm gánh nặng biến chứng nhiễm trùng lan tỏa của bệnh giun lươn S. stercoralistrên toàn cầu, mặc dù điều này cần các nghiên cứu thêm để làm sáng tỏ;
                Tại các vùng lưu hành đồng thời giun tóc Trichuris trichiura và cái ghẻ Sarcoptes scabiei, một chiến lược sử dụng IVM trong MDA (cùng với các chương trình hóa dự phòng hiện có kết hợp dùng albendazole cho T. trichiura) có thể làm giảm thêm tỷ lệ mắc các bệnh này.
 Một số bất lợi
            - Việc sử dụng IVM điều trị ở trẻ em, có thể xảy ra các tác dụng phụ nhẹ và trung bình, nhưng bằng chứng cho thấy chúng chỉ là tạm thời.Các thốngkê tác dụng phụ của thuốc IVM sử trong các chương trình loại trừ bệnh giun chỉ, các tác dụng phụ được mô tảgồm các triệu chứng về mắt như mờ mắt hoặc đau, các tác dụng phụ khác được mô tả là thần kinh hoặc da và tự khỏi;
             - Một số tác dụng phụ nghiêm trọng khi sử dụng IVM ở trẻ em đã được báo cáo, gồm quá mẫn cảm, khoảng QTc kéo dài (mặc dù chúng có thể là ngẫu nhiên hoặc do thuốc dùng đồng thời), nhưng hiếm gặp. Tình trạng trẻ bị nghẹn khi uống cả viên thuốc đã được ghi nhận trong chương trình MDA, nhưng tình trạng này ít xảy ra hơn đối với viên thuốc IVM có kích thước nhỏ;
              - Nếu một người bị nhiễm trùng giun chỉ Loa loa và trong máu có giun Loa loa cường độ cao, thì thuốc IVM có thể gây ra nguy cơ gây độc thần kinh;
              - Về mặt lý thuyết, điều trị hàng loạt bằng IVM nhiều lần có thể dẫn đến tình trạng kháng thuốc chống lại các tác nhân gây bệnh đặc hữu, mặc dù điều này chưa được quan sát thấy trong các chương trình MDA trước đây;
              - Việc sử dụng rộng rãi IVM có thể gây ra tác động sinh thái.
 Giá trị và ưu tiên
              Các thành viên GDG đánh giá tình trạng nhiễm trùng mãn tínhS. stercoralis, nhiễm trùng S. stercoralislan tỏa, tử vong do giun lươn là những kết quả quan trọng tác động lên cộng đồng và trong quá trình ra quyết định của họ;
               Các thành viên GDG xác định rằng mặc dù nhiễm trùng S. stercoralis mãn tính ít gây ra biểu hiện nghiêm trọng so với nhiễm trùng lan tỏa do giun lươnS. stercoralis. Nhưng tỷ lệ nhiễm trùng giun lươn S. stercoralismãn tính cao và nên xem xét nó như là một tác động quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng.
 Chấp nhận của cộng đồng
      Dựa trên kinh nghiệm của các thành viên GDG và các chương trình quy mô lớn như bệnh giun chỉ Onchocercaspp. và bệnh giun chỉ bạch huyết, triển khai MDA với thuốc IVM có khả năng sẽ được chấp nhận trong nhóm dân số mục tiêu và được thực hiện trong hệ thống y tế quốc gia, như các chương trình tương tự dành cho các bệnh NTDs lưu hành khác, dù điều này chưa được nghiên cứu chính thức.
 Sử nguồn lực và khả năng khi thực hiện
             Chi phí thực hiện MDA khi sử dụng IVM là hợp lý đối với hầu hết các vùng lưu hành bệnh ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình;
             Can thiệp có thể được triển khai trong các chương trình y tế quốc gia và các chương trình MDA đang diễn ra đối với các bệnh khác. Các nghiên cứu đã ước tính chi phí thuốc IVM là 0,1USD cho trẻ em trong độ tuổi đi học và 0,3 USD cho người lớn và chi phí giao hàng là 0,65 USD cho MDA tại trường học và 0,68 USD cho MDA toàn cộng đồng. Những chi phí này có thể thấp hơn khi lồng ghép vào các chương trình MDA hiện có;
            Cần có một chuỗi cung ứng IVM đa quốc gia đáng tin cậy và bền vững cùng các chương trình hoạt động có nguồn lực hỗ trợ các nhà phân phối thuốc cộng đồng trong việc cung cấp thuốc.
 Tính công bằng
           Mục đích của khuyến nghị này là giảm gánh nặng toàn cầu của bệnh giun lươn, căn bệnh ảnh hưởng không cân xứng đến các nhóm dân số thiệt thòi ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Do đó, một chiến lược giảm gánh nặng này có thể cải thiện công bằng về sức khỏe.
 Y đức
 Tiến hành MDA cung cấp phương pháp điều trị bằng IVM mà không cần chẩn đoán riêng lẻ, nghĩa là một số người được dùng thuốc nhưng không bị nhiễm bệnh và sẽ không được hưởng lợi trực tiếp từ việc điều trị và có thể có tác dụng phụ nhẹ.
 Quy định 
 Các cơ quan Quản lý Thực và Dược phẩmMỹ (US Food and Drug Administration), Cơ quan quản lý Dược phẩm và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe Anh và Bắc Ireland (United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland Medicines & Healthcare products Regulatory Agency), Danh mục thuốc thiết yếu của TCYTTG (WHO Model List of Essential Medicines) chấp thuận sử dụng IVM để điều trị bệnh giun lươnS. stercoralis.
 Hạn chế
 Hướng dẫn này dựa trên bằng chứng tốt nhất hiện có về điều trị và kiểm soát sức khỏe cộng đồng đối với bệnh giun lươn S. stercoralistính đến tháng 6/2023. Tuy nhiên, cơ sở bằng chứng được sử dụng để đưa ra khuyến nghị Hướng dẫn còn hạn chế, bao gồm việc thiếu các thử nghiệm lâm sàng (TNLS) có đối chứng ngẫu nhiên về các chiến lược MDA. Cụ thể, trong khi bằng chứng quan sát cho thấy MDA với ivermectin làm giảm nhiễm S. stercoralis, nhưng không có thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên nào có sẵn để so sánh phát hiện này
 Nhóm GDG cho rằng hướng dẫn này sẽ không làm giảm nhu cầu hoặc sự quan tâm đến nghiên cứu trong tương lai, bao gồm các nghiên cứu ngẫu nhiên hoặc bán ngẫu nhiên về bệnh giun lươn. Các phát hiện của nghiên cứu mô hình về hiệu quả và chi phí được thúc đẩy bởi bệnh tật liên quan đến nhiễm trùng S. stercoralis mãn tính, mặc dù các triệu chứng này rất khó phát hiện và khó đo lường. Tuy nhiên, GDG đã sử dụng bằng chứng tốt nhất hiện có về triệu chứng của nhiễm trùng mãn tính S. stercoralisvà đo lường tình tác động đến sức khỏe từ các bệnh nhiễm giun, sán mãn tính tương đương. 
 Ngoài ra. tồn tại tác hại chính nhiễm trùng lan tỏa do giun lươn S. stercoralis trên toàn cầu tại các vùng lưu hành bệnh, như phân bố độ tuổi của nguy cơ nhiễm S. stercoralis và sự không đồng nhất trong dịch tễ học bệnh giun lươn S. stercoralisở các vùng lưu hành. Việc lựa chọn ngưỡng tỷ lệ mắc bệnh cho cộng đồng để sử dụng MDA,bằng cách sử dụng bằng chứng mô hìnhtác động dự kiến của sức khỏe cộng đồng và cân bằng và các yêu cầu về nguồn lực cũng như các nguồn dữ liệu đa dạng khác, giả định sự tương đương giữa các xét nghiệm chẩn đoán khác nhau và xu hướng tỷ lệ mắc bệnh giun lươn S. stercoralistheo độ tuổi. 
 Hướng dẫn này không thực hiện đánh giá có hệ thống về các giá trị như sở thích, tính công bằng, khả năng chấp nhận và tính khả thi đối với MDA trong cộng đồng.
 Hướng dẫn sẽ được cập nhật khi có bằng chứng nghiên cứu mới.
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
    |   [1]    |    Bennett JE, Dolin RD, Blaser MK. Mandell, Douglas. Intestinal nematodes. Principles and practice of infectious diseases, Elsevier, 2019.    |  
  |   [2]    |    Stroffolini G, Tamarozzi F, Fittipaldo A, Mazzi C, Le B, Vaz Nery S, et al., Impact of preventive chemotherapy on Strongyloides stercoralis: A systematic review and meta-analysis.PLoS Negl Trop Dis., 2023;17(7):e0011473.   |  
  |   [3]    |    Geneva: World Health Organization. WHO handbook for guideline development, 2nd edition, 2014 https://iris.who.int/handle/10665/145714.    |  
  |   [4]    |    O. A. A. E. K. R. V. G. B. J. e. a. Guyatt G, J Clin Epidemiol, . 2011;64(4):383-94.    |  
  |   [5]    |    Alonso-Coello P, "GRADE Evidence to Decision (EtD) frameworks: a systematic and transparent approach to making well informed healthcare choices. 1: Introduction," BMJ, 2016;353:i2016.    |  
  |   [6]    |    Stroffolini G, Tamarozzi F, Fittipaldo A, Mazzi C, Le B, Vaz Nery S, et al., ". Impact of preventive chemotherapy on Strongyloides stercoralis: a systematic review and meta-analysis," . PLoS Negl Trop, Dis. 2023;17(7):e0011473..    |  
  |   [7]    |    . Buonfrate D, Salas-Coronas J, Muñoz J, Trevino Maruri B, Rodari P, et al., Lancet Infect Dis, 2019;19(11):1181–90..    |  
  |   [8]    |    Henriquez-Camacho C, Gotuzzo E, Echevarria J, White Jr AC, Terashima A, Samalvides F, et al., "vermectin versus albendazole or thiabendazole for Strongyloides stercoralis infection," Cochrane Database Syst Rev, 2016;2016(1):CD007745.    |  
  |   [9]    |    Navarro M, Camprubi D, Requena-Mendez A, Buonfrate D, Giorli G, Kamgno J, et al., "Safety of high-dose ivermectin: a systematic review and meta-analysis," J Antimicrob Chemother., 2020;75(4):827–34.    |  
  |   [10]    |    Henriquez-Camacho C, Gotuzzo E, Echevarria J, White Jr AC, Terashima A, Samalvides F, et al, "Ivermectin versus albendazole or thiabendazole for Strongyloides stercoralis infection," Cochrane Database Syst Rev, . 2016;2016(1):CD007745..    |  
  |   [11]    |    Ō. S. Crump A, "Ivermectin, ‘wonder drug’ from Japan: the human use perspective.," Proc Jpn Acad Ser B Phys Biol Sci., 2011;87(2):13–28..    |  
  |   [12]    |    Navarro M, Camprubi D, Requena-Mendez A, Buonfrate D, Giorli G, Kamgno J, et a, "safety of high-dose ivermectin: a systematic review and meta-analysis.," J Antimicrob Chemother, 2020;75(4):827–34..    |  
  |   [13]    |    WHO, "Preventive chemotherapy in human helminthiasis: coordinated use of anthelminthic drugs in," https://iris.who.int/handle/10665/43545, Geneva, 2006 .   |  
  |   [14]    |    M. W. S. M. P. B. S. S. C. C. e. a. Jittamala P, "A systematic review and an individual patient data meta-analysis of ivermectin use in children weighing less than," PLOS Negl Trop Dis, 2021;15(3):e0009144..    |  
  |   [15]    |    R.-M. A. A. A. M. J. G. F. V. D. E. J. e. a. Buonfrate D, "Severe strongyloidiasis: a systematic review of case reports," BMC Infect Dis, p. 13:78, 2013.    |  
  |   [16]    |    S. A. C. N. G. A. Q. 1. Wilkins AL, ": Is it safe to use ivermectin in children less than five years of age and weighing less than 15 kg?," Arch Dis Child, . 2018;103(5):514–9..    |  
  |   [18]    |    Bennett JE, Dolin RD, Blaser MK. Mandell, Douglas, and , intestinal nematodes (roundworms) Principles and Practice of Infectious Diseases, , 9th edition. Elsevier; 2019:   |  
  |   [19]   |    WHO releases guideline on public health control of human strongyloidiasis 02 August 2024   |  
 
   (Hết)
 Ths.BS. Nguyễn Đức Hồng & TS.BS. Huỳnh Hồng Quang
 Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn