Từ tháng 7-9/2007 Ban Quản lý dự án Viện Sốt rét-KST-CT Quy nhơn đã tiến hành giám sát hoạt động Dự án tại 6 tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Kon Tum và Đăk Lăk. Nội dung giám sát tập trung vào công tác quản lý, điều hành và tiến độ thực hiện Dự án; giám sát thực hiện các chỉ số Dự án; giám sát công tác báo cáo, tiếp nhận và sử dụng trang thiết bị. Tại mỗi tỉnh địa điểm giám sát được lựa chọn là hai huyện có nhiều khó khăn tồn tại trong hoạt động là Khánh Sơn, Ninh Hòa (Khánh Hòa); Đồng Xuân, Sơn Hòa (Phú Yên); Hoài Ân, Tây Sơn (Bình Định); Trà Bồng, Ba tơ (Quảng Ngãi); Đăkglei, Đăk Tô (Kon Tum); Buôn Đôn, Lăk (Đăk Lăk). Tại mỗi huyện chọn từ 2-3 xã để giám sát hiệu quả hoạt động thực tế tại cơ sở sau khi đã thu thập số liệu báo cáo tại tuyến tỉnh và huyện.
Kết quả giám sát:
Các chỉ số sốt rét (bệnh nhân sốt rét, ký sinh trùng sốt rét) vào thời điểm giám sát đều giảm so với cùng kỳ năm trước, không có tử vong sốt rét và không có dịch sốt rét xảy ra; số bệnh nhân sốt rét phát hiện tập trung chủ yếu ở các đối tượng di cư tự do hoặc đi rừng/ngủ rẫy. Trong đó đáng lưu ý nguyên nhân sốt rét tăng tại một số tỉnh như Đăk Lăk (BNSR tăng 12,09%; KSTSR tăng 12,36%; SRAT tăng 133,33%), Bình Định (BNSR tăng 41.34%, KSTSR tăng 78.72%), Phú Yên (BNSR tăng 14,19%; KSTSR tăng 65,45%), Khánh Hòa (BNSR tăng 27,65%, KSTSR tăng 5,21%) là do đang vào thời kỳ đỉnh cao mùa truyền bệnh nhưng công tác giám sát dân di biến động còn yếu, mặt khác là công tác thống kê báo cáo từ tuyến xã lên huyện chưa phân tích rõ các ca bệnh.
Công tác báo cáo từ tuyến tỉnh gửi tuyến trung ương đúng thời gian quy định, nhưng báo cáo tại tuyến huyện và tuyến xã chưa ghi nhận cụ thể, chi tiết nội dung giám sát theo quy định nên tập hợp báo cáo khó khăn. Công tác phòng chống véc tơ (cấp màn, tẩm màn, phun tồn lưu) bảo vệ dân ở các vùng sốt rét lưu hành thực hiện kịp thời theo kế hoạch phòng chống sốt rét hàng năm; công tác tập huấn cũng như giáo dục truyền thông phòng chống sốt rét nhìn chung cũng đều đáp ứng yêu cầu hoạt động của Dự án.
Các vật tư, trang thiết bị từ Ban Quản lý Dự án Trung ương chuyển về như màn, thuốc sốt rét, que thử chẩn đoán nhanh, vật liệu truyền thông đều được các Ban Quản lý Dự án tỉnh tiếp nhận và phân bổ xuống các huyện đúng đối tượng và mục đích sử dụng.
Khó khăn và tồn tại:
Hiện nay y tế tuyến huyện có thay đổi về mô hình tổ chức, hoạt động Dự án được chuyển giao cho Trung tâm Y tế dự phòng huyện chịu trách nhiệm thực hiện nên một số nơi chưa nắm được phương thức hoạt động hoặc chưa có kinh nghiệm quản lý Dự án nên triển khai thực hiện các hoạt động còn nhiều lúng túng; Tuyến huyện, xã hạn chế về nhân lực thực hiện do phải kiêm nhiệm quá nhiều chương trình y tế quốc gia nên ít thời gian đầu tư vào các hoạt động của Dự án, còn nhầm lẫn trong quản lý sổ sách vật tư giữa các chương trình với nhau; chưa tổng hợp đánh giá và so sánh được tỷ lệ bệnh so với cùng kỳ năm trước nên rút ra nhận định kết quả đầu tư Dự án khó khăn; một số nơi chưa áp dụng mẫu báo cáo thống kê mới và còn tính toán sai một số chỉ số của dự án; tiến độ thực hiện test chẩn đoán nhanh còn chậm trong khi số lượng được cấp gần hết hạn sử dụng.
Trong quá trình giám sát, Đoàn giám sát đã thông báo kết quả giám sát cho các Ban Quản lý Dự án tỉnh kết quả giám sát và đề nghị những giải pháp khắc phục để đảm bảo Dự án thực hiện đúng tiến độ và có hiệu quả trong năm 2007; đồng thời hướng dẫn cụ thể chotuyến xã, tuyến huyện được giám sát biết cách thực hiện Dự án đúng quy định.