Trong vùng sốt rét lưu hành, đối tượng có nguy cơ bị mắc bệnh sốt rét cần được đặc biệt quan tâm để bảo vệ là trẻ em và phụ nữ có thai. Đối tượng này nếu bị mắc sốt rét sẽ có tình trạng bệnh lý xảy ra khá nặng nề, gây nên những hậu quả nghiêm trọng có thể làm ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe, kể cả tính mạng. Vì vậy cần biết những vấn đề có liên quan để thực hiện các biện pháp phòng bệnh hiệu quả.
Trẻ em và bệnh sốt rét
Ở vùng sốt rét lưu hành, khi mới sinh ra, trẻ dưới 6 tháng tuổi còn bú mẹ ít bị mắc sốt rét và ít chết do bệnh sốt rét vì máu còn huyết sắc tố đặc hiệu F và trẻ được thừa hưởng kháng thể của người mẹ. Do còn bú mẹ nên trẻ thiếu para-amino benzoic acid (PABA) nên ký sinh trùng sốt rét không tổng hợp được acid folic. Đối với trẻ từ 6 tháng trở lên sống trong vùng sốt rét lưu hành có tỷ lệ mắc sốt rét và tử vong do sốt rét thường cao hơn người lớn, cao nhất là từ 4 đến 5 tuổi. Đặc biệt trẻ em từ 1 đến 4 tuổi nếu bị mắc sốt rét hay gặp các cơn co giật khi có sốt cao, triệu chứng rối loạn tiêu hóa khá phổ biến như nôn mửa, tiêu chảy, đau bụng, bụng chướng đầy hơi ... có dấu hiệu thiếu máu nhanh, lách rất dễ sưng, sớm bị rối loạn dinh dưỡng. Chu kỳ cơn sốt thường không đều đặn, đôi khi không có giai đoạn của triệu chứng rét run, xét nghiệm máu thấy đường huyết giảm. Hiếm gặp biến chứng nặng ở gan và thận nhưng hay có triệu chứng ho, viêm khí quản, viêm phế quản; tỷ lệ chuyển sang sốt rét ác tính thể não thường thấp hơn so với người lớn.
Trong công tác thống kê báo cáo, điều tra, giám sát dịch tễ vùng sốt rét; chỉ số trẻ em dưới 5 tuổi bị mắc sốt rét đã được các nhà chuyên môn đặc biệt quan tâm để đánh giá tình hình và phân tích yếu tố có liên quan đến mức độ lưu hành bệnh. Trong những năm qua, với các biện pháp phòng chống tích cực, bệnh sốt rét đã bị đẩy lùi, số trẻ em mắc sốt rét giảm đáng kể nhưng vẫn còn được phát hiện ở một số địa phương. Vì vậy không nên chủ quan trong việc bảo vệ, phòng tránh sự mắc bệnh cho trẻ em ở vùng sốt rét vẫn đang còn bệnh lưu hành.
Phụ nữ có thai và bệnh sốt rét
Khi phụ nữ mang thai sống trong vùng sốt rét, những thay đổi sinh lý làm cho sức đề kháng miễn dịch bị suy yếu, rất dễ có nguy cơ bị mắc bệnh sốt rét. Tỷ lệ ghi nhận mắc sốt rét cao vào quý hai của thời kỳ thai nghén, nhất là ở phụ nữ mới mang thai lần đầu. Bệnh diễn biến thường nặng với đường huyết giảm, chủ yếu xảy ra vào 3 tháng cuối của thai kỳ, khi chuyển dạ và sau khi sinh đẻ. Phụ nữ mang thai mắc bệnh sốt rét do nhiễm ký sinh trùng Plasmodium falciparum, nguy cơ bị sốt rét thể ác tính chiếm tỷ lệ từ 10 đến 15%, cao hơn so với phụ nữ không mang thai; tử vong cũng chiếm tỷ lệ cao 30% hoặc hơn. Nếu mắc sốt rét do nhiễm ký sinh trùng Plasmodium vivax, tình trạng thai nghén sẽ tạo điều kiện và yếu tố thuận lợi để gây nên những cơn sốt rét tái phát xa do thể ngủ ký sinh ở gan của ký sinh trùng.
Khi mắc bệnh sốt rét do nhiễm ký sinh trùng Plasmodium falciparum, phụ nữ có thai thường bị sốt cao, dễ gây sẩy thai, đẻ non, thai chết lưu. Bệnh sốt rét cũng làm tăng thiếu máu trong thời kỳ thai nghén, đặc biệt ở những phụ nữ mang thai lần đầu vào thời gian quý hai của thai kỳ do thiếu acid folic. Hồng cầu nhiễm ký sinh trùng sốt rét bị vón kết trong nhau thai là nguyên nhân gây nên tình trạng viêm nhau thai, làm ảnh hưởng đến hậu quả trẻ sơ sinh bị thiếu cân hoặc đẻ non. Ký sinh trùng sốt rét cũng có thể từ máu của người mẹ vượt qua nhau thai gây sốt rét bẩm sinh thực thụ nhưng trường hợp này rất hiếm thấy. Tại nhau thai, hồng cầu nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum bị giữ lại ở đây với lý do còn chưa rõ và có một số lượng lớn thể phân liệt già của ký sinh trùng cũng tập trung ở nhau thai. Vì vậy, nhau thai của phụ nữ mang thai bị mắc bệnh sốt rét đã được sử dụng để làm nguồn kháng nguyên ký sinh trùng sốt rét.
Phụ nữ mang thai mắc bệnh sốt rét thường dễ có diễn biến bệnh lý nặng. Vì vậy đối tượng này cũng cần đặc biệt quan tâm để tổ chức các biện pháp phòng bệnh tốt. Khi bị mắc bệnh, cần được phát hiện, chẩn đoán, điều trị kịp thời và chăm sóc tích cực.
Phòng bệnh và bảo vệ sức khỏe
Biện pháp phòng bệnh, bảo vệ có hiệu quả và tốt nhất cho trẻ em, phụ nữ mang thai sống trong vùng sốt rét lưu hành không bị mắc bệnh là sử dụng màn ngủ thường xuyên thành tập quán trong sinh hoạt hàng ngày để hạn chế muỗi tiếp xúc chích đốt máu và truyền bệnh. Màn ngủ được tăng khả năng bảo vệ bằng hóa chất xua diệt muỗi tẩm vào màn theo quy định hàng năm ngay từ đầu mùa bệnh phát triển. Đối với các gia đình thiếu màn ngủ, đối tượng ưu tiên phải được sử dụng màn để phòng bệnh là trẻ em và phụ nữ có thai. Trẻ em thường ngủ sớm nên cần chú ý mắc màn ngủ vào lúc trời chập choạng tối cho trẻ khi đi ngủ, kiểm soát tay và chân của trẻ có thể bỏ ra ngoài màn do trở mình tạo điều kiện cho muỗi đốt truyền bệnh. Phụ nữ có thai cũng cần phải được bảo vệ tốt bằng màn ngủ, ngoài ra theo quy định hiện nay, phụ nữ có thai sống trong vùng sốt rét được cấp thuốc tự điều trị và hướng dẫn sử dụng khi có sốt nghi ngờ bị mắc bệnh sốt rét để tránh những diễn biến nặng có thể xảy ra.