UNICEF nỗ lực bảo vệ nhóm đối tượng “nhạy cảm” khỏi bị sốt rét ở Indonesia.
Theo chuyên gia Suzanna Dayne của tổ chức UNICEF cho biết tại đảo Halmahera phía namđất nước Indonesia, các bà mẹ với con nhỏ nhận mùng chống sốt rét sau khi các đứa trẻ đã tiêm chủng cơ bản. Theo báo cáo của Suzanna Dayne về các nổ lực tìm kiếm mới để chống lại sốt rét cho miền đảo này. Tại ngôi làng Yamili, Indonesia đã 4 thể kỷ qua, người dân của đảo Halmahera vẫn còn vấn đề đe dọa đến sức khỏe cho những người đang sống nhưng chưa được chú trọng. mối đe dọa đó là sốt rét-một căn bệnh dễ tấn công các nhóm nhạy cảm như thế (trẻ em và phụ nữ mang thai). Ngày nay, chính phủ,cùng UNICEF và một số đối tác khác đã hành động để chấm dứt các mối đe dọa này. Ngôi làng Yamli là nơi mà chúng ta chỉ có thể tiếp cận được bằng thuyền, cũng là một vùng bị ảnh huowngr của sốt rét rất nặng. Xung quanh là các vùng đầm lầy, sũng nước, có lẽ rất lý tưởng cho muỗi anopheles phát triển và sinh bệnh. Một cư dân địa phương tên là Ester Rahmat đã mất đi một trong hai đứa con gái sinh đôi khi cô bé chỉ vừa 21 tháng tuổi. Bản thân Rahmat cũng đã bị sốt rét và được điều trị tại bệnh viện và trong thời gian đó, 2 trong số những người láng giềng của bà tai cũng mất đi nhiều đứa trẻ do sốt rét. Đứng trước thực traqngj như thế tổ chức UNICEF đã vào cuộc và cố gắng hết sức để bảo vệ các người dân nơi đây và đặc biệt đến các đối tượng nhạy cảm.
Các mùng chống muỗi là ưu tiên một trong cuộc chiến chống sốt rét: để hỗ trợ cho các mục đích của Indonesia trong việc loại trừ bệnh sốt rét vào năm 2030, UNICEF đang giúp đỡ để thiết lập một chương trình cho các vùng nguy cơ này. Bước đầu tiên là phòng chống bệnh sốt rét, rồi tiếp đến mới laọi trừ-đó là ý kiến chuyên gia văn phòng sốt rét của UNICEF Bill Hawley. "Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu tất cả quần thể muỗi giảm đi, mỗi người khi đó được bảo vệ, thậm chí người đó không sử dụng mùng. Vì thế chúng ta có một hiệu lực bảo vệ trực tiếp cho mọi ngườiqua việc sử dụng mùng và chúng ta cũng có hiệu quả khi dựa vào cộng đồng để thực hiện.
Mùng tẩm đã được xử lý bằng thuốc diệt côn trùng và hướng lựa chọn ưu tiên trong các chiến dịch phòng chống sốt rét. Nếu công việc triển khai cùng thời điểm vào lúc các chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia thực hiện là tốt cho cả bà mẹ và trẻ em. Mùng tẩm được cấp cho các nhóm đối tượng nhạy cảm nhất, bao gồm phụ nữ mang thai, các bà mẹ và trẻ em khác. Theo lịch trình hằng tháng thì phụ nữ thường đến các trạm chăm sóc y tế để được hỗ trợ vềsức khỏe và dinh dưỡng. ở đó họ cũng sẽ được nhận mùng, các bà mẹ với trẻ em nhỏ được cấp mùng sau khi trẻ tiêm chủng cơ bản. Các phụ nữ mang thai nhận mùng sau khi họ thử máu để xem có bị sốt rét không. Hầu hết, các bà mẹ không nhớ đến thử máu.
Tất cả chúng ta đều có thể ngủ một cách an toàn. Một thanh niên đã từng bị sốt rét đã tham gia tích cực vào chiến dịch này và anh ta đã đến cộng đồng để làm mọi điều để bảo đảm sao cho mọi người đều có mùng. "Tôi không muốn bất kỳ người mẹ nào hoặc đứa trẻ nào bị sốt rét hoặc chết vì sốt rét, tôi phải làm mọi thứ để bảo vệ mọi người ở đảo Halmahera," anh ta nói như thế. Qua thời gian nhiều năm, Indonesia đã có nhiều thành công trong cuộc chiến chống lại sốt rét, nhưng để làm được điều này thì chương trình cần phải duy trì và nhân rộng. Giá của một cái mùng khoảng 10USD và dù sao đi nữa đến nay mọi người đều ngủ yên trong mùng không sợ muỗi đốt nữa.
Lại thêm nhiều trẻ em được ngủ trong màn, song vẫn còn hàng triệu người chưa có
Năm trước khoảng 19% trẻ em châu Phi đang sống trong vùng sốt rét lưu hành ngủ trong mùng tẩm hóa chất phòng chống sốt rét-theo nghiên cứu công bố trên tạp chí The Lancet (07.2007) với tiêu đề “Độ bao phủ nằm màn tẩm ở châu Phi”. So với năm 2000, theo số liệu của WHO thì chỉ có < 2% trẻ em châu Phi nằm màn. Vì thế, mặc dù độ bao phủ về màn tăng lên đáng kể, song 90 triệu trẻ em vẫn chưa được bảo vệ. Các tác giả từ đại học Oxford nghiên cứu tại Kenya và được tài trợ của tổ chức Wellcome Trust. Họ nghiên cứu và thu thập số liệu từ nhiều vùng khác nhau của 40 quốc gia. Trong khi số liệu toàn cầu thì chưa có hoặc chưa cập nhật nhưng sự hợp tác Oxford-Wellcome vẫn đang được mở rộng.
Sự phân phối màn tẩm tăng lên kể từ năm 2002 nhưng sự phân phối không đồng đều, hơn ½ trong số 90 triệu trẻ em tại 7 quốc gia chưa đủ và riêng tại Nigeria có đến 25% chưa bao phủ màn. Một vài quốc gia nhỏ được phân phối tốt; Eritrea đạt đến % độ bao phủ. Một vài vùng quy mô trung bình như Kenya và Madagascar thì không bao phủ tốt lắm. Ngược lại một số vùng lớn hay đông dân như Nigeria, Uganda, Mozambique, Ivory Coast, Cameroon, Congo và Sudan chỉ < 15%.
Động lực của giao bào P.falciparum trong các vùng lưu hành sốt rét khác nhau.
Đây là một nghiên cứu cơ bản do nhóm tác giả Kasia Stepniewska, Ric N Price, Colin J Sutherland, Chris J Drakeley, Lorenz von Seidlein, Francois Nosten và Nicholas J White, được đăng trên tạp chí chuyên ngành nổi tiếng Malaria Journal 2008, 7:249doi:10.1186/1475-2875-7-249. Với nghiên cứu hồi cứu số liệu nhằm xác định và so sánh các yếu tố liên quan đến những người mang giao bào P.falciparum trong 3 vùng sốt rét khác nhau từ Thái Lan, Gambia và Tanzania. Số liệu lấy từ các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng quy mô lớn dựa trên thực địa để điều tra người mang giao bào sau khi sử dụng các thuốc sốt rét khác nhau. Kết quả cho thấy giao bào trong máu được phát hiện trong suốt quá trình quá trình theo dõi ở 12% số bênh nhân (931/7548) ở Thái Lan, 34% (683/2020) ở Gambia và 31% (430/1400) ở Tanzania (p<0.001). Khoảng 1/3 (33%, 680/2044)số bệnh nhân có giao bào trong máu trong quá trình theo dõi, có lẽ có bệnh nhân có giao bào tiềm tàng cũng được đưa vào nghiên cứu (ngày 0 hoặc ngày 1): 35% (318 / 931) ở Thái Lan, 37% (250 / 683) ở Gambia, 26% (112/430) ở Tanzania. Lượng giao bào tối đa được thấy trước trước ngày thứ 7 sau khi dùng thuốc điều trị (93% ở Thái Lan, 70% ở Tanzania và 78% ở Gambia). Tỷ lệ người mang giao bào thấp nhất được thấy sau điều trị bằng các dẫn suất artemisinin, trong khi sulfadoxine-pyrimethamine (SP) có liên quan có ý nghĩa rất lớn đến sự phát triển và hình thành giao bào trong máu hơn các thuốc sốt rét khác (P< 0.001). Thời gian mang giao bào ngắn hơn ở Thái Lan (86%) và ở Tanzania (65%) so với ở Gambia. Tình trạng mang giao bào là 27% lâu hơn trong số những người bị thiếu máu, ngắn hơn ở những bệnh nhân được điều trị bằng dẫn suất artemisinin, 27% ởThái Lan, 71% ở Tanzania và Gambia. Vậy, nghiên cứu này xác định mối liên quan không phụ thuộc giữa mang giao bào với thiếu máu, tần suất thấp hơn có ý nghĩa trong suốt quá trình điều trị bằng thuốc artemisinin. Sự khác biệt lớn ở tỷ lệ người mang giao bào giữa các trung tâm nghiên cứu có mức độ lan truyền khác nhau, điều đó cho thấy sự can thiệp thuốc sốt rét có ý nghĩa ngăn ngừa lan truyền bệnh sốt rét ở những nơi khác nhau.
Kháng hóa chất Pyrethroid do Anopheles arabiensis tại Gwave-vùng LHSR của Zimbabwe
Nghiên cứu do nhóm tác giả Givemore Munhenga, Hieronymo T Masendu, Basil D Brooke, Richard H Huntvà Lizette K Koekemoer đăng trên tạp chí chuyên ngành Malaria Journal 2008, 7:247doi:10.1186/1475-2875-7-247. Kháng hóa chất diệt côn trùng có thể là một trở ngại lớn trong chương trình phòng chống sốt rét. Theo các phát hiện gần đây về kháng hóa chất DDT ở muỗi Anopheles arabiensis tại Gokwe, Zimbabwe và cơ chế kháng đã được tìm hiểu trong quần thể muỗi này. Với phương pháp nghiên cứu chuẩn mực WHO bioassays, sử dụng loại hóa chất Permethrin 0.75%, DDT 4%, Malathion 5%, Bendiocarb 0.1% và Dieldrin 4% được thực hiện trên quần thể muỗi anopheles hoang dại và dòng F1 của An.arabiensis. Kỹ thuật phân tử được sử dụng để phân loại loài cũng như xác định đột biến knockdown resistance (kdr) và điểm đột biến ace-1 trên các muỗi riêng biệt. Thử nghiệm sinh hóa được sử dụng để xác định mức độ liên quan hệ detoxifying enzyme bao gồm các esterases không đặc hiệu, monooxygenases và glutathione-S-transferases cũng như phát hiện sự có mặt của acetylcholine esterase (AChE).
Kết quả cho thấy Anopheles arabiensis là các thành viên trội của phức hợp Anopheles gambiae. Trong số 436 con muỗi cái An. Arabiensis, 0.5% có dương tính với P.falciparum. Test chẩn đoán của WHO trên quần thể hoang dại cho thấy kháng với nhóm hóa chất pyrethroid permethrin với mức độ chết trung bình là 47% trong suốt tháng 2.2006 và tỷ lệ tử vong trung bình 68.2% trong tháng 1.2008. Kháng hóa chất DDT (tỷ lệ chết trung bình 68.4%) vào tháng 2.2006. Tuy nhiên, 2 năm sau thì tỷ lệ chết trung bình tăng lên 96%. Thử nghiệm nhạy cảm trên dòng F1 của họ An. arabiensis cho thấy tỷ lệ chết trung bình 87% (n= 758) sau khi cho phơi nhiễm với hóa chất DDT 4% and sau khi cho phơi nhiễm với permethrrine 0.75% là 65% (n= 587). Tổng cộng 8 họ kháng với cả DDT và permethrin. Phân tích số liệu sinh hóa của họ F1 năm 2006 biểu thị có hoạt độ cao với monooxygenase (48.5% của họ được thử, n = 33, p <0.05), glutathione S-transferase (25.8% của họ thử, n = 31, p < 0.05) và hoạt độ chung của esterase so sánh với khu hệ nhạy của An. Arabiensis. Loại đột biến kháng kdr và điểm đột biến ace-IR không phát hiện được trong thử nghiệm này. Nghiên cứu này xác định sự có mặt của kháng permethrine trong quần thể An. Arabiensis từ Gwave và nhấn mạnh tầm quan trọng của tính nhạy kháng của hóa chất diệt có tính giai đoạn và chu kỳ, nghĩa là có sự thay đổi theo thời gian.
Tài liệu tham khảo chính
1.Zuckerman JN, et al. Rapid protection against hepatitis A and B following accelerated schedule of a combined hepatitis A/B vaccine (abstract). Antiviral Ther. 2000;5(suppl 1):8.
2.Kallinowski B, et al. Can monovalent hepatitis A and B vaccines be replaced by a combined hepatitis A/B vaccine during the primary immunization course? Vaccine. 2000;19:16-22.
3.Centers for Disease Control and Prevention. CDC Surveillance Summaries, December 7, 2001. MMWR Morb Mortal Wkly Rep. 2001;50(No.SS-5).
4.Shanks GD, et al. Efficacy and safety of atovaquone/proguanil as suppressive prophylaxis for Plasmodium falciparum malaria. Clin Infect Dis. 1998;27:494-499.
5.Sukwa TY, et al. A randomized, double blind, placebo-controlled field trial to determine the efficacy and safety of Malarone (atovaquone/proguanil) for the prophylaxis of malaria in Zambia. Am J Trop Med Hygiene. 1999;60:521-525.
6.Hogh B, et al. Atovaquone-proguanil versus chloroquine-proguanil for malaria prophylaxis in nonimmune travelers: A randomized, double blind study. Lancet. 2000;356:1888-1894.
7.Overbosch D, et al. Atovaquone-proguanil versus mefloquine for malaria prophylaxis in nonimmune travelers: Results from a randomized double blind study. Clin Infect Dis. 2001;3:1015-1021.
8.Thông tin về công ty GlaxoSmithKline: http:// www.gsk.com.
9.Thông tin về MMV: http://www.mmv.org
10.Issues of malaria. 2008
11.http://mosquito.who.int/malariacontrol
12.http://www.malariasite.com/
13.http://jimbocyberdoc.wordpress.com/2008
14.http://www.gsk.com/media/pressreleases/2008
15.http://www.malariajournal.com
16.http://www.who.int.