Đặc điểm véc tơ lây truyền Plasmodium cynomolgi tại Việt Nam
Trong số 3 nghiên cứu báo cáo về tình trạng nhiễm P. cynomolgi ở muỗi từ năm 2010 đến năm 2018, có 2/3 nghiên cứu được tiến hành ở miền Nam hoặc Nam Trung Bộ của Việt Nam, trong khi một nghiên cứu khác được tiến hành ở Malaysia. Tất cả các nghiên cứu đều sử dụng PCR lồng và giải trình tự để xác định tình trạng nhiễm loài Plasmodium spp. Một nghiên cứu đã xác định tình trạng nhiễm Plasmodium spp. ở bốn loài Anopheles, bao gồm An. dirus, An. maculatus, An. aconitus và An. minimus. Một nghiên cứu đã xác định nhiễm Plasmodium spp. ở An. dirus. Một nghiên cứu được thực hiện tại huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hoà từ năm 2010 đến 2013 để xác định tình trạng nhiễm Plasmodium spp. ở muỗi An. dirus. Muỗi được thu thập bằng phương pháp bẫy muỗi sử dụng người làm mồi tại các khu vực rừng và rìa rừng gần thôn Ngã Hai, thuộc xã Khánh Phú, huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa. Các nhóm thu thập làm việc theo cặp, hoạt động suốt đêm, với một người thu thập từ 18:00 đến 24:00 giờ và người còn lại từ 0:01 đến 6:00 giờ sáng. Mức độ thu thập trung bình hàng tháng dao động từ 18 đến 48 người-đêm mỗi tháng, tổng cộng 1.617 người - đêm trong suốt 36 tháng.
Tổng cộng 6.071 con muỗi An. dirus cái được bắt, trong đó 6.062 con được mổ để phát hiện thoa trùng trong tuyến nước bọt bằng phương pháp soi kính hiển vi, và 86 con (1,4%) được xác định nhiễm thoa trùng Plasmodium spp. Trong số muỗi nhiễm thoa trùng thì có 58/3.705 con (1,6%) được tìm thấy trong rừng và 28/2.357 con (1,2%) ở khu vực rìa rừng.
Trong số 86 con muỗi được xét nghiệm có thoa trùng trong tuyến nước bọt, 83 con được phân tích bằng PCR lồng (nested PCR) để xác định loài Plasmodium spp., và 79 con được xét nghiệm thành công. Do bộ mồi đặc hiệu 18sRNA cho P. knowlesi đôi khi có thể phản ứng chéo với DNA của P. vivax, việc xác định P. knowlesi được thực hiện bằng ba xét nghiệm PCR khác nhau và xác nhận qua giải trình tự. Kết quả cho thấy 17/79 mẫu dương tính với PCR được xác nhận là P. knowlesi thông qua giải trình tự gen 18S rRNA.
Kết quả xét nghiệm PCR lồng ghép, sáu loài ký sinh trùng Plasmodium spp. đã được phát hiện, với P. vivax chiếm phổ biến nhất (43%), tiếp theo là P. knowlesi (15%), P. inui (15%), P. cynomolgi (10%), P. coatneyi (9%) và P. falciparum (8%). Không ghi nhận P. malariae và P. ovale. Kết quả được mô tả theo bảng bên dưới:
Bảng 3. Số lượng muỗi nhiễm các loài ký sinh trùng sốt rét tại Khánh Vĩnh
| Tình trạng nhiễm | Plasmodiumspp. | Số lượng muỗi nhiễm |
| Đơn nhiễm (53) | Pf | 4 |
| Pv | 27 |
| Pk | 4 |
| Pct | 7 |
| P. cynomolgi | 6 |
| Pin | 5 |
| Nhiễm phối hợp hai loài (19) | Pf, Pv | 3 |
| Pf, Pin | 1 |
| Pv, Pk | 7 |
| Pv, P. cynomolgi | 3 |
| Pv, Pin | 3 |
| Pk, Pin | 2 |
| Nhiễm phối hợp 3 loài (6) | Pf, Pv, Pin | 1 |
| Pv, Pk, P. cynomolgi | 1 |
| Pv, Pk, Pin | 2 |
| Pv, Pct, Pin | 1 |
| Pk, Pct, Pin | 1 |
| Nhiễm phối hợp 4 loài (1) | Pv, Pct, P. cynomolgi, Pin | 1 |
| Số lượng PCR-Dương tính | 79 |
| Số lượng PCR-Âm tính | 4 |
| Tổng số mẫu có thoa trùng tuyến nước bọt được phân tích PCR | 83 |
Pf: P. falciparum, Pv: P. vivax, Pk: P. knowlesi, Pct: P. coatneyi, P. cynomolgi: P. cynomolgi, Pin: P. inui
Những kết quả này chỉ ra rằng những người ngủ qua đêm trong khu vực rừng này thường xuyên bị muỗi truyền thoa trùng của các loài Plasmodium spp., tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự xuất hiện của các loài sốt rét truyền nhiễm từ động vật sang người mới. Các trường hợp nhiễm phối hợp các loài ký sinh trùng sốt rét phổ biến trong muỗi nhấn mạnh nguy cơ lây truyền chéo giữa các loài Plasmodium spp., đòi hỏi tăng cường giám sát và nghiên cứu để ngăn chặn sự bùng phát của các bệnh sốt rét mới từ linh trưởng sang người, đặc biệt ở các khu vực rừng và rìa rừng có sự giao thoa giữa con người, khỉ và muỗi truyền bệnh như huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hoà.
Hình 10. Kết quả phân tích PCR xác định Plasmodium spp. từ tuyến nước bọt của mẫu muỗi khô
Một nghiên cứu có quy mô lớn hơn cũng đã được thực hiện tại tại 7 tỉnh Gia Lai, Khánh Hoà, Phú Yên, Ninh Thuận, Binh Thuận, Đồng Nai và Bình Phước của Việt Nam năm 2018. Tổng cộng có 2.278 con muỗi thuộc một trong bốn loài muỗi: An. dirus, An. maculatus, An. aconitus và An. minimus đã được thu thập. Trong số những con muỗi thu thập được, 1.398 con đã được phân tích bằng PCR lồng, trong đó, 40 con muỗi có kết quả dương tính với KSTSR Plasmodium spp. Hầu hết các KSTSR này được phát hiện trong các mẫu từ vùng ngực, tiếp theo là phần bụng. Các ký sinh trùng được phát hiện ở cả ngực và bụng của An. dirus.
Bảy loài ký sinh trùng Plasmodium spp. đã được phát hiện trong quá trình phân tích, trong đó, P. inui là loài phổ biến nhất, tiếp theo là P. falciparum, P. vivax, P. cynomolgi, P. coatneyi, P. knowlesi và P. fieldi. Nhiễm đồng thời P. inui với loài Plasmodium spp. ở người và các loài ở linh trưởng khác là phổ biến.
Bảng 4. Kết quả phân tích PCR xét nghiệm Plasmodium spp. ở muỗi tại Việt Nam
| Địa điểm | An. dirus | An. maculatus | An. minimus | An. aconitus | Tổng số |
| Tỉnh | Xã | Số XN | Số (+) | Số XN | Số (+) | Số XN | Số (+) | Số XN | Số (+) | Số XN | Số (+) |
| Khánh hoà | Khánh Thương | 50 | 3 | 5 | 0 | 2 | 0 | 2 | 0 | 59 | 3 |
| Sơn Thái | 226 | 9 | 1 | 0 | 2 | 0 | 0 | 0 | 229 | 9 |
| Gia Lai | Chư R’Căm | 32 | 0 | 46 | 0 | 50 | 1 | 93 | 0 | 221 | 1 |
| Ia Rsai | 37 | 0 | 5 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | 43 | 0 |
| Phú Yên | Sơn Hội | 0 | 0 | 65 | 0 | 7 | 0 | 0 | 0 | 72 | 0 |
| Ea Charang | 51 | 2 | 9 | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 | 61 | 3 |
| Ninh Thuận | Phước Bình | 8 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 8 | 1 |
| Bình Thuận | Phan Tiến | 100 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 100 | 0 |
| Đồng Nai | Hiếu Liêm | 32 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 32 | 1 |
| Bình Phước | Bù Gia Mập | 561 | 21 | 6 | 0 | 6 | 1 | 0 | 0 | 573 | 22 |
| Tổng số | 1097 | 37 (3,4%) | 137 | 1 (0,7%) | 68 | 2 (2,9%) | 96 | 0 (0%) | 1398 | 40 (2,9%) |
Phân tích PCR đặc hiệu loài, 7 loài Plasmodium spp. đã được phát hiện trên 49 mẫu muỗi, bao gồm 28 mẫu từ phần ngực và 21 mẫu từ phần bụng. Trong số 49 mẫu dương tính với PCR, P. inui là loài phổ biến nhất (19/49), tiếp theo là P. falciparum (18/49), P. vivax (14/49), P. cynomolgi (9/49), P. coatneyi (3/49), P. fieldi (1/49) và P. knowlesi (1/49).
Trong các mẫu này, đơn nhiễm được ghi nhận ở sáu loài Plasmodium spp.. Số mẫu đơn nhiễm là P. falciparum (14 mẫu), P. vivax (5 mẫu), P. inui (10 mẫu), P. cynomolgi (6 mẫu), P. coatneyi (1 mẫu) và P. fieldi (1 mẫu). Đồng nhiễm với hai hoặc ba loài Plasmodium spp. được phát hiện trong 12 mẫu. Kết quả cho thấy đồng nhiễm của loài P. inui hoặc P. vivax với các loài Plasmodium spp. ở người và linh trưởng không phải người là phổ biến nhất, tiếp theo là đồng nhiễm của P. falciparum với các loài Plasmodium spp. ở người và linh trưởng không phải người (Bảng 5). Ngoài ra, không ghi nhận sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ nhiễm Plasmodium spp. giữa phần ngực và phần bụng của muỗi.
Kết quả này nhấn mạnh vai trò của muỗi Anopheles spp. trong việc lan truyền nhiều loài Plasmodium spp., bao gồm cả P. cynomolgi và sự phổ biến của đồng nhiễm, làm gia tăng nguy cơ lây truyền sốt rét từ động vật sang người.
Bảng 5. Số lượng muỗi nhiễm các loài ký sinh trùng sốt rét tại Việt Nam, năm 2018
| Kết quả xét nghiệm PCR | Số lượng muỗi nhiễm |
| Tình trạng nhiễm | Plasmodiumspp. | Tổng | Phần ngực | Phần bụng |
| Đơn nhiễm (37) | Pf | 14 | 7 | 7 |
| Pv | 5 | 3 | 2 |
| Pin | 10 | 4 | 6 |
| P. cynomolgi | 6 | 5 | 1 |
| Pct | 1 | 0 | 1 |
| Pfil | 1 | 0 | 1 |
| Phối hợp 2 loài (8) | Pf, Pv | 2 | 0 | 2 |
| Pf, Pk | 1 | 1 | 0 |
| Pf, Pin | 1 | 0 | 1 |
| Pv, Pin | 3 | 3 | 0 |
| Pin, Pct | 1 | 1 | 0 |
| Phối hợp 3 loài (4) | Pv, Pin, P. cynomolgi | 3 | 3 | 0 |
| Pv, Pin, Pct | 1 | 1 | 0 |
| Số lượng PCR-Dương tính | | 49 | 28 | 21 |
| Số lượng PCR-Âm tính | | 1.349 | 1.370 | 1.377 |
| Số lượng mẫu phân tích | | 1.398 | 1.398 | 1.398 |
| | | | | |
Pf: P.falciparum; Pv: P. vivax; Pin: P. inui; P. cynomolgi: P. cynomolgi; Pct: P. coatneyi; Pfil: P. fieldi; Pk: P. knowlesi
Nghiên cứu này đã xác nhận sự hiện diện của các loài Plasmodium spp. gây sốt rét ở người và linh trưởng không phải người trong muỗi An. dirus, một vật chủ trung gian truyền sốt rét chủ đạo. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy muỗi An. maculatus và An. minimus tham gia vào quá trình truyền bệnh sốt rét. Sự hiện diện của các loài Plasmodium spp. và đồng nhiễm trong các loài muỗi này cho thấy nguy cơ tiềm tàng tình trạng đáng báo động, có thể dẫn đến sự xuất hiện của các loài sốt rét truyền từ động vật sang người mới.
Kết quả nhấn mạnh sự cần thiết của việc tăng cường giám sát các loài muỗi và ký sinh trùng Plasmodium spp. ở các khu vực nguy cơ cao, đồng thời phát triển các chiến lược kiểm soát hiệu quả để ngăn chặn sự lây lan của sốt rét từ linh trưởng sang người.
Mối quan hệ giữa ký sinh trùng P. cynomolgi và môi trường xung quanh mà chúng đang sống mang đến một cơ hội tiềm năng khác cho việc can thiệp và kiểm soát dịch bệnh trong tương lai thông qua quản lý véc tơ tổng hợp. Khái niệm quản lý véc tơ tích hợp là việc kiểm soát véc tơ không chỉ thực hiện thông qua một phương thức can thiệp, mà phải có phương pháp tiếp cận đa tầng. Một trong những phương pháp quan trọng nhất để kiểm soát véc tơ bằng hóa chất diệt côn trùng. Thông thường, phương pháp này được thực hiện phun hóa chất tồn lưu trong nhà và/ hoặc sử dụng màn tẩm hóa chất chống muỗi có thể làm giảm sự lây truyền bệnh sốt rét tới hai cấp độ khác nhau. Tiếc thay, khi được sử dụng như một biện pháp can thiệp duy nhất cho một khu vực địa lý có tỷ lệ muỗi cao, các chương trình hóa chất không đủ hiệu quả. Đây là lý do tại sao nên sử dụng phương pháp tích hợp gồm cả việc phun hóa chất tồn lưu trong nhà và sử dụng màn đã được xử lý bằng hóa chất. Các phương pháp xử lý bằng hóa chất như vậy có thể có tác dụng tích lũy trong việc ức chế sự lây truyền véc tơ, bằng cách cản trở vòng đời của véc tơ, nên sẽ làm giảm thời gian muỗi có thể lây nhiễm cho các cá thể khác. Việc sử dụng màn đã được xử lý bằng hóa chất và phun hóa chất tồn lưu trong nhà cùng lúc đã dẫn đến phần lớn giảm gánh nặng bệnh ở các nước có thu nhập thấp và trung bình gần đây.
Việc sử dụng hóa chất diệt côn trùng thường được coi là trụ cột trong chiến lược kiểm soát sinh thái của các vectơ. Tuy nhiên, xu hướng các véc-tơ phát triển các cơ chế kháng thuốc đa dạng đã được ghi nhận rõ ràng. Khả năng kháng hóa chất của véc tơ sốt rét đã được chứng kiến ở tất cả loại hóa chất thông thường. Một phương thức được đề xuất để giải quyết vấn đề kháng hóa chất ở muỗi Anopheles spp. là thay thế các chất liệu lưới may màn đã qua xử lý hiện tại bằng các mẫu mới hơn có hỗn hợp hóa chất diệt côn trùng cũng như có sử dụng hóa chất diệt côn trùng thay thế dự kiến để tẩm màn.
Khung kiểm soát sinh thái của Tổ chức Y tế Thế giới bao gồm việc cải tạo môi trường, thao tác môi trường và các chiến lược giảm thiểu tiếp xúc giữa vật chủ trung gian truyền bệnh và con người. Để thực hiện các biện pháp cải tạo môi trường, thường cần một khoản đầu tư lớn, nhưng nó sẽ phát triển cơ sở hạ tầng lâu dài bao gồm cải thiện công nghệ nước, thủy lợi và các đập. Điều này là do các chương trình này làm tăng cường chuyển động môi trường và mực nước, có thể thay đổi môi trường sống tự nhiên của vật trung gian truyền bệnh và đã được chứng minh ở nhiều nơi tại Châu Á, thông qua làm gián đoạn chu kỳ sinh sản muỗi Anopheles spp. Ngược lại, thao tác môi trường cho phép các phương pháp tác động nhanh hơn đến môi trường sống của vật trung gian truyền bệnh. Điều này có thể đạt được thông qua việc ngăn chặn các khu vực bóng râm mát cho muỗi ưa thích môi trường râm mát bằng cách loại bỏ thảm thực vật mọc um tùm và cỏ dại thủy sinh, đồng thời thay đổi mô hình thoát nước của một khu vực để tránh nước tù đọng. Tương tự, nếu vật chủ trung gian truyền bệnh ưa thích môi trường nhiều nắng, thì có thể tạo ra nhiều khu vực được che phủ hơn ở nơi chúng thường sinh sống. Các chiến lược giảm thiểu tiếp xúc giữa vật trung gian truyền bệnh và con người cũng nên được kết hợp vào phương pháp tiếp cận đa phương thức để phòng ngừa vật trung gian truyền bệnh sốt rét. Điều này có thể thực hiện được bằng cách đơn giản là đảm bảo con người định cư ở khu vực cách xa nơi sinh sản của vật chủ trung gian. Chuồng trại chăn nuôi nên được tách biệt khỏi nơi ở của con người để ngăn chặn vật chủ trung gian truyền bệnh bị thu hút bởi động vật và vô tình hút máu người. Cuối cùng, người dân nên dùng màn chống muỗi và lưới cửa sổ quanh nhà.
Một phương pháp mới thú vị để điều chỉnh môi trường nhằm kiểm soát véc tơ truyền bệnh là sử dụng cá ăn ấu trùng muỗi để kiểm soát quần thể véc tơ. Phương pháp này tập trung nhiều hơn vào ấu trùng muỗi, nên làm giảm thiểu thiệt hại môi trường do thuốc trừ sâu gây ra. Ví dụ phổ biến nhất về cá ăn ấu trùng muỗi có thể được dùng là Bacillus thuringiensis israelensis và Bacillus sphaericus.
(còn nữa) -->Tiếp theo Phần 4
Ths.Bs. Nguyễn Công Trung Dũng & TS.BS. Huỳnh Hồng Quang
Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn