P. cynomolgi là một ký sinh trùng sốt rét thuộc nhóm động vật nguyên sinh ký sinh (apicomplexan parasite) có khả năng nhiễm vào trong muỗi và khỉ ở Asian Old World. Những năm gần đây, một số ca nhiễm tự nhiên tên người cũng được ghi nhận và báo cáo trên y văn. Loài ký sinh trùng sốt rét này được dùng làm mô hình cho P. vivax vì loài P. cynomolgi có cùng chu kỳ và đặc điểm chu kỳ sinh học giống với loài P. vivax.  Ngoài ra, vì chúng có nhiều đặc điểm tương đồng, bao gồm khả năng tạo ra giai đoạn ngủ trong gan và xâm nhập vào hồng cầu lưới. Do đó, các trường hợp nhiễm P. cynomolgi tự nhiên ở người đã ghi nhận gia tăng gần đây, khiến nó trở thành một loại sốt rét mới cần được quan tâm. Hơn nữa, việc nghiên cứu P. cynomolgi giúp hiểu rõ hơn về P. vivax và phát triển biện pháp phòng và điều trị bệnh sốt rét. 
  Đặc điểm lâm sàng sốt rét do Plasmodium cynomolgi trên người
 Năm 1961, một trường hợp nhiễm P. cynomolgi ở một sinh viên 31 tuổi đã được báo cáo từ Khoa Y, Đại học New York, Mỹ. Sinh viên này biểu hiện sốt ớn lạnh, sốt cao cách nhật, đau đầu dữ dội và có một số thay đổi nhẹ về một số chỉ số sinh hóa (bilirubin huyết thanh, lactate dehydrogenase) và thông số huyết học (hemoglobin, hematocrit và số lượng hồng cầu). Vài năm sau, các trường hợp nhiễm P. cynomolgi chủng B đã được báo cáo từ Pháp ở hai cá nhân bị sốt cao, đau đầu, buồn nôn và nhiều cơn đau nhức toàn thân khác nhau.
 Các triệu chứng lâm sàng của nhiễm P. cynomolgi tương tự các loài sốt rét khác với một số khác biệt nhỏ giữa các chủng P. cynomolgi. Một nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy các triệu chứng chính tương tự (sốt cao, đau đầu, chán ăn, đau cơ và buồn nôn) đối với các chủng P. cynomolgi M và B, nhưng khác nhau về thời gian, tần suất sốt và lách to. Thời gian kéo dài hơn và tần suất sốt cao hơn, tần suất lách to cao hơn được thấy ở những người tình nguyện viên bị nhiễm P. cynomolgi (chủng M) so với những người bị nhiễm P. cynomolgi (chủng B). Ngoài ra, ớn lạnh và nôn mửa được thấy ở những cá nhân bị nhiễm chủng M trong thực nghiệm. 
 Loài P. cynomolgi và P. vivax có biểu hiện lâm sàng tương tự, từ nhẹ đến trung bình đối với P. cynomolgi (chủng B) và từ trung bình nặng đối với P. vivax. Một số dấu hiệu/ triệu chứng liên quan đến P. cynomolgi khác như đau bụng lan tỏa, giảm tiểu cầu, khó chịu toàn thân, giảm đáp ứng tuyến thượng thận, thiếu máu kèm theo tăng hồng cầu lưới, giảm bạch cầu, tăng tốc độ máu lắng, đau lưng dưới, giảm albumin máu và tăng gamma-globulin máu cũng đã được báo cáo. Một số dấu hiệu/triệu chứng được đề cập ở trên (thiếu máu, giảm tiểu cầu và thiếu máu kèm theo bệnh tăng hồng cầu lưới) cũng đã được báo cáo ở khỉ đầu chó bị nhiễm chủng B trong quá trình thử nghiệm. 
 Kết quả điều tra thực địa cũng đã ghi nhận các triệu chứng phổ biến như sốt nhẹ đến trung bình, ớn lạnh và rét run, ho và cảm lạnh đã được báo cáo ở một phụ nữ Đan Mạch đến thăm tiểu bang Terengganu, Malaysia. Một nghiên cứu khác báo cáo sốt, ớn lạnh, rét run, đau đầu và đau cơ ở một người đàn ông sống ở tiểu bang Kelantan, Malaysia.
 Hình 7. Triệu chứng lâm sàng ghi nhận trên các bệnh nhân nhiễm KSTSR P. cynomolgi ở người
 Sự gia tăng nhiễm Plasmodium cynomolgi tại khu vực Đông Nam Á 
 P. cynomolgi là một loài KSTSR ở khỉ mà đã được xem là một mô hình mẫu nghiên cứu kể từ năm 1907. Gân đây, với số ca báo cáo tăng vọt ở người, giúp nhận ra loài này đã trở thành một ký sinh trùng truyền từ động vật sang người đang nổi lên ở người. Mối tương tác giữa nhiễm P. cynomolgi và người, môi trường và các vật chủ trung gian hay vật chủ chính động vật không phải là người cần được điều tra đầy đủ với tập trung lên mảng lâm sàng và các bước tiếp cận để quản lý loài KSTSR lây truyền từ động vật mới này. 
 Các nghiên cứu in vitro và in vivo đều chỉ ra rằng P. cynomolgi có thể xâm nhập vào các tế bào hồng cầu lưới của người bằng các cơ chế giống như cơ chế mà P. vivax sử dụng, nhấn mạnh khả năng lây nhiễm cho vật chủ là người nếu có cơ hội. Các nghiên cứu này cũng cho thấy khả năng gây lây truyền ở người của ký sinh trùng và nhấn mạnh nhu cầu về các công cụ chẩn đoán sinh học phân tử để phát hiện chính xác P. cynomolgi. 
 Ngoài ra, những thách thức trong các hệ thống chẩn đoán và giám sát có thể đánh giá thấp mức độ tác động thực sự của loài ký sinh trùng này, khiến các cơ quan y tế phải tăng cường các nỗ lực giám sát và triển khai các biện pháp can thiệp có mục tiêu. Tăng cường giám sát, cải thiện khả năng chẩn đoán và phát triển các chiến lược kiểm soát véc tơ có mục tiêu là rất quan trọng để giảm thiểu nguy cơ P. cynomolgi trở thành một bệnh truyền nhiễm từ động vật lây sang người chính giống như P. knowlesi.
 P. cynomolgi đã được báo cáo một cách tình cờ và trên thực nghiệm là nguyên nhân gây ra bệnh sốt rét ở người, nhưng có một báo cáo cho thấy KSTSR này là một trường hợp nhiễm tự nhiên ở một phụ nữ người Mã Lai từ bờ biển phía Đông của bán đảo Malaysia, một khu vực có sự hiện diện khỉ đuôi dài. P. cynomolgi lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1907 ở trên khỉ Macaca fascicularis được thu thập ở tại Java. P. cynomolgi có các đặc điểm hình thái tương tự như P. vivax, như được hiển thị trên kính hiển vi, bao gồm chu kỳ vô tính (48 giờ), thời kỳ tiền phát triển và sự hiện diện của thể ngủ, có thể gây ra tái phát. Mặc dù hiện tại vẫn chưa rõ liệu tình trạng tái phát của P. cynomolgi có xảy ra ở người hay không, nhưng khả năng xảy ra thể ngủ có ý nghĩa lâm sàng vì việc điều trị bệnh sốt rét tái phát như P. vivax đòi hỏi phải sử dụng nhóm thuốc 8-aminoquinoline (ví dụ primaquine hay tafenoquine), có tác dụng tan máu ở người thiếu enzyme glucose-6-phosphate dehydrogenase (G6PD). Xác định P. cynomolgi dựa trên khuếch đại gen RNA ribosome 18S (rRNA) bằng trình tự phản ứng chuỗi lồng (Nested-PCR). 
 Các trường hợp được báo cáo về P. cynomolgi ở Đông Nam Á gây ra mối quan ngại đáng kể về sức khỏe cộng đồng. Các báo cáo riêng lẻ về nhiễm P. cynomolgi ở người đã tăng lên trong vài năm qua, làm dấy lên sự chú ý về khả năng tác động tiềm ẩn với con người. Làm trầm trọng thêm vấn đề này là những điểm tương đồng về mặt hình thái giữa P. cynomolgi và P. vivax, có thể dẫn đến chẩn đoán sai và báo cáo không đầy đủ về các trường hợp nhiễm P. cynomolgi ở người 
 Hình 8. Các yếu tố và thách thức trong phòng chống sốt rét lây truyền từ động vật sang người
 Sự phân bố của véc tơ, khỉ đuôi dài và các trường hợp người nhiễm P. cynomolgi chỉ giới hạn ở các nước Đông Nam Á, nơi có môi trường sống tự nhiên của muỗi Anopheles spp. đặc hiệu và vật chủ khỉ đuôi dài với các khu vực sinh sống của con người giống nhau (Hình 9). Sự phân bố địa lý của vật chủ chứa bệnh tự nhiên và đặc điểm sinh học của các véc tơ đóng vai trò quan trọng đối với sự lây truyền thành công của bệnh sốt rét trên động vật này.
 Hình 9. Phân bố P. cynomolgi, muỗi và quần thể khỉ lây truyền sốt rét tại Đông Nam Á
 Đặc điểm véc tơ lây truyền Plasmodium cynomolgi 
 Các véc tơ lây truyền KSTSR ở linh trưởng tại các nước trong khu vực Đông Nam Á, chủ yếu là muỗi Anopheles spp. từ nhóm Leucosphyrus. Nhiều loài trong nhóm này, chẳng hạn như An. balabacensis, An. dirus và An. latens cũng là các véc tơ truyền bệnh sốt rét ở người rất “hiệu quả”. Việc xác định nhóm An. Leucosphyrus là véc tơ truyền bệnh sốt rét P. knowlesi và các ký sinh trùng sốt rét khác ở các loài linh trưởng đã được chứng minh bằng phân tích mẫu máu trong dạ dày muỗi, xác nhận sự hiện diện của cả máu người và máu quần thể khỉ trong những con muỗi thu thập được này. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cũng đã ghi nhận khả năng của muỗi Anopheles spp. từ mhóm Umbrosus (Anopheles collessi và An. roperi) và nhóm Barbirostris (Anopheles donaldi) trong việc truyền bệnh sốt rét do P. knowlesi gây ra. 
 Tuy nhiên, những điều này cần thêm nhiều nghiên cứu xác nhận hơn vì không quan sát thấy bào tử trùng trong những con muỗi này và các nghiên cứu chỉ dựa trên các kỹ thuật phân tử (hình như khiếm khuyết khâu mổ muỗi?). Về tỷ lệ lưu hành của các loài Plasmodium spp. ở linh trưởng được xác định từ các véc tơ, cả P. inui và P. cynomolgi đều cho thấy tỷ lệ phần trăm cao nhất, tiếp theo là P. knowlesi. Do đó, sự hiện diện của muỗi Anopheles, đặc biệt là từ nhóm Leucosphyrus, ở cả khu vực quanh nhà và rừng làm tăng nguy cơ lây truyền sốt rét từ động vật sang người, đặc biệt là khi vật chủ khỉ bị nhiễm bệnh ở gần. Tuy nhiên, hầu hết muỗi Anopheles bị nhiễm P. cynomolgi đã được ghi nhận ở Malaysia, có thể là do số lượng lớn các nghiên cứu về côn trùng học được tiến hành ở quốc gia này. 
 Đáng chú ý, trong số 16 nghiên cứu được tiến hành tai 4 quốc gia Đông Nam Á, trong dó 81,3% (13/16) nghiên cứu được thực hiện tại Malaysia. Điển hình một nghiên cứu tại Malaysia đã xác định tình trạng nhiễm KSTSR Plasmodium spp. ở An. balabacensis baisas. Đơn nhiễm P. cynomolgi xảy ra ở 16 trường hợp (57,1%), trong khi nhiễm phối hợp P. cynomolgi với các loài Plasmodium spp. khác xảy ra ở 12 trường hợp (42,9%). Hầu hết các trường hợp nhiễm P. cynomolgi là nhiễm trùng phối hợp với P. inui (5 trường hợp; 41,7%), P. vivax (5 trường hợp; 41,7%), P. knowlesi (2 trường hợp; 16,7%), P. coatneyi (1 trường hợp; 8,33%) và P. fieldi (1 trường hợp; 8,33%).