Ngày 10/7/2014. New York, USA - Phòng ngừa sốt rét trong thời kỳ mang thai giúp cải thiện sức khoẻ bà mẹ và trẻ em. Các đối tác Đẩy lùi sốt rét (Roll Back Malaria_RBM) phát động báo cáo mới và kêu gọi cam kết mới từ cộng đồng y tế và phát triển.
Báo cáo mới nhấn mạnh tác động của các can thiệp bệnh sốt rét đối với sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em đã được đưa ra hôm nay cùng với cuộc gặp bộ phận cấp cao hàng năm của Hội đồng Liên hợp quốc về kinh tế và xã hội (United Nations Economic and Social Council_ECOSOC) ở New York .Những đóng góp trong phòng chống bệnh sốt rét cho sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh là mới nhất trong tiến bộ và một loạt tác động của đối tác RBM giúp đánh giá sự tiến bộ hướng tới mục tiêu đặt ra trong Kế hoạch hành động vì sốt rét trên toàn cầu (Global Malaria Action Plan_GMAP) và các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (United Nations Millennium Development Goals_MDGs) của Liên Hiệp Quốc.
Trường Đại học Y học nhiệt đới London là đồng tác giả, báo cáo bao gồm sự đóng góp từ các đối tác khác nhau của RBM và chia sẻ bằng chứng cho thấy điều trị dự phòng bệnh sốt rét cách quãng trong khi mang thai và việc sử dụng màn chống muỗi muỗi có tẩm hóa chất diệt (insecticide-treated mosquito nets_ITNs) có thể làm giảm nguy cơ tử vong do bệnh sốt rét trong vòng 28 ngày đầu tiên của cuộc sống đến 18%, các tác giả cũng nhấn mạnh rằng những công cụ bảo vệ này có thể làm giảm việc trọng lượng trẻ nhẹ cânkhi sinh đến 21%.
"Mỗi năm ước tính có khoảng 125 phụ nữ mang thai sống trong các khu vực có sự lan truyền bệnh sốt rét cao trên toàn thế giới, dẫn đến83 triệu ca sống khi sinh", Quyền Giám đốc điều hành RBM, Tiến sĩ Thomas Teuscher cho biết: "Phụ nữ có thai ở các vùng lưu hành bệnh sốt rét có nguy cơ nhiễm bệnh sốt rét cao hơn 50% so với phụ nữ không mang thai, chúng ta phải làm mọi thứ có thể để bảo vệ những khoảnh khắc quý giá này và cho phép tất cả các phụ nữ có cơ hội mang thai và sinh đẻ an toàn mà không có nguy cơ nhiễm căn bệnh gây chết người này".
Từ năm 2009 đến năm 2012, ước tính có khoảng 94.000 trẻ sơ sinh tử vong đã được ngăn chặn như là kết quả của các can thiệp này trên quy mô lớn trong thai kỳ, các quốc gia có độ bao phủ cao và sử dụng các biện pháp can thiệp phòng chống sốt rét trong giai đoạn này cho thấy tỷ lệ tử vong trẻ em giảm đến 20%. Việc sử dụng các can thiệp đã được chứng minh là có hiệu quả này đóng góp tích cực vào việc đạt được các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, đặc biệt là các mục tiêu có liên quan đến cải thiện sức khỏe bà mẹ và làm giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi trong khi cũng cho phép tiến bộ so với các mục tiêu rộng hơn bằng cách góp phần làm cho xã hội sức khỏe hơn và sôi động hơn. Mặc dù có những tiến bộ này nhưng sốt rét trong thai kỳ vẫn tạo nên một thiệt hại nặng nề và đóng góp phần lớn vào tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh. Ở châu Phi, 10.000 phụ nữ và từ 75.000 đến 200.000 trẻ em dưới một tuổi được ước tính là chết hàng năm do hậu quả bị nhiễm sốt rét trong thai kỳ. Sốt rét là một nguyên nhân chính gây thiếu máu ở phụ nữ mang thai và có thể dẫn đến tử vong mẹ khi sinh do xuất huyết. Sốt rét cũng chịu trách nhiệm cho thai chết lưu, sinh non, trẻ nhẹ cân và làm tăng nguy cơ tử vong trong những ngày đầu tiên của cuộc sống ở một đứa trẻ.
Kết quả đáng chú ý được nêu trong báo cáo đã đạt được với mức độ bao phủ của các can thiệp thường thấp ở các nước vùng cận Saharan-châu Phi cho thấy bản chất các nỗ lực phòng chống sốt rét có hiệu quả cao trong thời gian mang thai và nhu cầu hợp tác lớn hơn để đảm bảo bảo vệ mạnh mẽ hơntrong nhóm quần thể quan trọng này. Các tác giả lưu ý rằng khoảng 300.000 ca tử vong ở trẻ sơ sinh có thể được ngăn chặn với độ bao phủ đạt được khoảng 80% các can thiệp từ năm 2009đến 2012.
Trong khi tung ra báo cáo ở New York, các đối tác RBM kêu gọi cam kết mới và sự hợp tác lớn hơn giữa các cộng đồng sốt rét và sức khỏe bà mẹ nhằm tăng cường việc tiếp cận các can thiệp và tối đa hóa tác động của những nỗ lực. Chỉ còn khoảng 500 ngày là đến thời hạn chót vào 2015 của các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và một bức tranh tài chính khó khăn thì việc tiếp tục hợp tác để mở rộng quy mô thực hiện các biện pháp can thiệp cứu mạng sống sẽ rất quan trọng nhằm đảm bảo cho các bà mẹ và trẻ em có thể sống một cuộc sống lành mạnh và đóng góp cho cộng đồng của họ.