Nghiên
cứu được tiến hành từ 2002-2004 tại 3 vùng cây công nghiệp: cao su, cà
phê, điều của tỉnh Gia Lai, với 2 mục tiêu: Đánh giá một số đặc điểm
dịch tễ sốt rét trong cộng đồng dân cư sống tại các vùng cây công
nghiệp và xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến mức độ sốt rét tại các
vùng cây công nghiệp này. Với thiết kế nghiên cứu cắt ngang và phân
tích cho các kết quả sau:
Tỷ lệ nhiễm KSTSR đỉnh 2 (9-11) cao hơn đỉnh 1 (4-5) cả 3 các vùng. Tỷ lệ nhiễm ở vùng cao su (8,59%), vùng cà phê (7,50%), ở vùng điều (5,99%). P.falciparum chiếm chủ yếu trong cơ cấu KSTSR, vùng cao su (82,05%) vùng cà phê (72,72%) và vùng điều (74,00%).
Tại
vùng cao su có 17 loài (có An.minimus và An.dirus); tại vùng cà phê có
14 loài, (có An.minimus và An.dirus); tại vùng điều có 16 loài (chỉ thu
thập được 1 loài chính An.minimus). An.minimus đốt máu từ 20
giờ đến 1-2 giờ sáng, cao nhất là từ 22-23 giờ đêm. Riêng tại vùng cao
su An.minimus vẫn tiếp tục đốt máu đến 4-5 giờ sáng với mật độ 0,5
con/giờ/người. An.dirus đốt máu từ 21-24 giờ đêm, kéo dài đến 2-3 giờ
sáng, mật độ đốt máu cao nhất lúc 22-23 giờ đêm.
Các
điều tra xã hội học cho thấy: Người dân tin tưởng ngủ màn phòng chống
được bệnh sốt rét, tuy nhiên cán bộ y tế chưa chủ động tiếp cận cộng
đồng để chăm sóc sức khoẻ. Người dân cũng đề nghị cấp màn miễn phí (cà
phê, điều) hoặc bán trợ giá và đào tạo nhân viên y tế thôn bản để chăm
sóc sức khỏe trực tiếp tại cộng đồng.
Tại
vùng cao su công nhân cạo mủ nhiễm sốt rét cao hơn đối tượng khác. Cộng
đồng sống gần suối, sát rừng cao su, giữa các vườn cà phê, điều tỷ lệ
mắc sốt rét cao hơn những người khác.