Huyện Nam Trà My thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng của tỉnh Quảng Nam có tình hình sốt rét diễn biến phức tạp nhiều năm và gia tăng trong năm 2005. Để chủ động giám sát và có những biện pháp khống chế kịp thời không để dịch sốt rét xãy ra, từ 25/7-10/8/2006 Viện sốt rét KST- CT Quy Nhơn đã phối hợp với Trung tâm PCSR-BC tỉnh Quảng Nam, Trung tâm Y tế huyện Nam Trà My tiến hành điều tra dịch tễ sốt rét; điều tra côn trùng truyền bệnh sốt rét; điều tra quan sát thói quen ngủ màn và tỷ lệ màn hiện có; giám sát hoạt động PCSR của y tế cơ sở trong năm 2005 và những tháng đầu năm 2006 tại hai xã Trà Leng và Trà Dơn thuộc huyện Nam Trà My. Kết quả giám sát được tóm tắt như sau:
1.Xã Trà Leng:
 |
Giao ban Y tế thôn bản hàng tháng |
Trà Leng là một xãmiền núi có tình hình sốt rét diễn biến phức tạp những tháng đầu năm 2005 ỏ đây đã có sự gia tăng bệnh nhân sốt rét và ký sinh trùng sốt rét. Toàn xã có 4 thôn, 365 hộ với 1674 người, người M,Nông chiếm 100%, đời sống kinh tế của người dân ở đây còn thấp, giao thông khó khăn chủ yếu là đi bộ. Trạm y tế xã có 5 nhân viên (1 y sỹ, 3 y tá và 1 nữ hộ sinh), 1 xét nghiệm viên điểm kính hiển vi phục vụ công tác phát hiện và chẩn đoán bệnh nhân sốt rét tại trạm, 10 y tế thôn bản đang hoạt động. Y tế xã tổ chức giao ban với y tế thôn bản, thực hiện khám và điều trị cho BNSR được thực hiện, ghi nhận đầy đủ bệnh nhân sốt rét và kết quả xét nghiệm lam hàng tháng.
Trong 8 tháng đầu năm 2006, Trạm Y tế xã đã ghi nhận 20 bệnh nhân sốt rét, xét nghiệm 196 lam máu, phát hiện 11 ký sinh trùng sốt rét (chiếm 5,6% so với số lam xét nghiệm). Điều trị 56 liều thuốc sốt rét (20 liều điều trị BNSR và 36 liều điều trị đối tượng nguy cơ). Qua phân tích số liệu thấy BNSR có xu hướng tăng từ tháng 6 đến tháng 8, nhưng đã được Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, Trung tâm PCSR-BC tỉnh và Trung tâm Y tế huyện có biện pháp chỉ đạo,kiểm soát kịp thời ngăn chặn sự gia tăng đột biến.
Kết quả điều tra dịch tễ qua 445 người được khám và xét nghiệm ở 3 thôn phát hiện 3,82% BNSR, 7,42% KSTSR, 2,47% lách sưng, 4,7% giao bào. KSTSR gặp ở hầu hết các lứa tuổi cảngười lớn và trẻ em, P. vivax và P.falciparumcó tỷ lệ như nhau trong cơ cấu KSTSR.
Kết quả điều tra côn trùng qua 5 phương pháp mồi người trong nhà, mồi người ngoài nhà, bẫy đèn trong nhà, ngoài nhà và soi chuồng gia súc bắt được 68 cá thể muỗi gồm 6 loài, không phát hiện được véc tơ truyền bệnh chính mà chỉ thấy vectơ truyền bệnh phụ với mật độ thấp như An. aconitus, An. vagus, An. sinensis… bằng phương pháp mồi người ngoài nhà.
Kết quả điều tra về tình hình ngủ màn trong cộng đồng qua 30 hộ điều tra, 170 khẩu (trung bình 5,67 người/hộ) có 67 màn đôi (chỉ số màn trong dân 2,54) chứng tỏ cộng đồng đã được cấp màn đầy đủ. Tuy nhiện, chỉ 55 người có ngủ màn chiếm tỷ lệ thấp (32,35%) do người dân chưa có thói quen nằm màn mặc dù đã được Nhà nước cấp. Bên cạnh việc cấp màn tẩm hóa chất, xã Trà Leng còn là vùng áp dụng biện pháp phun hoá chất tồn lưu diệt muỗi, trong điều kiện nhiều gia đình nhà cửa còn sơ sài, trống trải nên biện pháp khó đạt hiệu quả cao; về lâu dài cần tuyên truyền cho người dân tự giác ngủ màn và tự mua màn để sử dụng.
2.Xã Trà Dơn
 |
Phương tiện khó khăn đi lại các vùng sốt rét trọng điểm |
Xã Trà Dơn cũng có đặc điểm tình hình sốt rét tương tự như xã Trà leng và có sự gia tăng bệnh nhân sốt rét và ký sinh trùng sốt rét vào năm 2005. Toàn xã có 6 thôn, 686 hộ với 2938 người, hầu hết là đồng bào dân tộc Cà Dong. Trạm y tế xã có 3 nhân viên (2 y sỹ và 1 nữ hộ sinh) và 13 y tế thôn bản, điểm kính hiển vi không hoạt động vì chưa có xét nghiệm viên.
BNSR được phát hiện hầu hết ở các tháng, nhưng đã được Viện và tỉnh, huyện có biện pháp khống chế kịp thời. Qua kiểm tra nhận thấy sổ sách ghi chép đầy đủ, có báo cáo lưu theo dõi hàng tháng đầy đủ, công tác giám sát và xét nghiệm được tiến hành thường xuyên hàng tháng, nhân viên y tế xã đã chủ động đến thôn để giám sát đối tượng và chủ động nắm tình hình sốt rét tại cơ sở.
Kết quả điều tra dịch tễ qua 315 người được khám và xét nghiệm ở 2 thôn phát hiện 4,76% BNSR; 8,89% KSTSR; 3,17% lách sưng và 5,7% giao bào. KSTSR gặp ở hầu hếtcác lứa tuổi cảngười lớn và trẻ em, P.falciparum chiếm tỷ lệ 75,00% trong cơ cấu chủng loại KSTSR.
Kết quả điều tra côn trùng bằng 5 phương pháp điều tra bắt được 59 cá thể muỗi gồm 8 loài, trong đó có véc tơ truyền bệnh chính (An. minimus) bằng phương pháp mồi đèn trong nhà 4 con mật độ 1,00 con/đèn/đêm, mồi đèn ngoài nhà 2 con mật độ 0,50 con/đèn/đêm, soi chuồng gia súc 2 con mật độ 0,50 con/giờ/người. Bắt được một số vectơ truyền bệnh phụ với mật độ thấp như: An. vagus, An. sinensis… Muỗi hoạt động chủ yếu từ 19 giờ đến nửa đêm.
Kết quả điều tra về tình hình ngủ màn trong cộng đồng qua 30 hộ, 160 khẩu (trung bình 5,33 người/hộ) có 57 màn đôi, chỉ số màn trong dân là 2,81 người/màn. Nhưng cũng giống như Trà leng, Trà Dơn chỉ có 63 người ngủ màn chiếm tỷ lệ thấp (39,38 %) do chưa có thói quen nằm màn. Biện pháp phun tồn lưu hóa chất ở đây cũng khó đạt hiệu quả mong muốn do cấu trúc nhà cửa quá sơ sài.
Tóm lại qua kết quả điều tra dịch tễ sốt rét tại hai xã thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng của huyện Nam Trà My (Quảng nam) là Trà Leng và Trà Dơn thấy nguy cơ lan truyền sốt rét cao và khả năng xảy dịch sốt rét vẫn còn tiềm ẩn do có sự hiện diện của trung gian truyền bệnh chính (An. minimus) và 75% số ký sinh trùng sốt rét được phát hiện có giao bào. So sánh với kết quả điều tra vào thời điểm sốt rét gia tăng năm 2005, ý thức tự bảo vệ của người dân hầu như không được cải thiện thông qua chỉ số nằm màn quá thấp 20-30%.
Đây là những xã vùng sốt rét lưu hành nặng có diễn biến rất phức tạp nguy cơ sốt rét gia tăng rất cao, có nhiều yếu tố thuận lợi cho sốt rét phát triển nên cần tăng cường giám sát tình hình sốt rét tại thôn bản có nhiều bệnh nhân sốt rét, chủ động nắm chắc tình hình để có biện pháp phòng chống phù hợp, khi có bệnh nhân sốt rét gia tăng cần kịp thời báo cáo lên trên, nhằm kiểm soát tốt tình hình sốt rét tại địa phương không để dịch xãy ra. Cần phải tăng cường điều trị diệt giao bào ở những bệnh nhân sốt rét có ký sinh trùng, điều trị và quản lý tốt BNSR, tuyên truyền vận động người dân nằm màn để phòng chống muỗi đốt và tạo cho người dân có thói quen khi bị sốt phải đến trạm y tế để khám và xét nghiệm máu tìm KSTSR. Kết hợp nhiều biện pháp trong PCSR, vận động nhân dân và các cấp chính quyền, đoàn thể cùng tham giađể công tác PCSR đạt hiệu quả cao.