Hiện nay tình hình sốt rét nhiều vùng trên thế giới giảm, nhưng nguy cơ mắc sốt rét ở một số khu vực có ảnh hưởng của xung đột, đói nghèo, đặc biệt tại các vùng có dân di cư tự do là rất đáng quan tâm.
Theo báo cáo của Pim Martens and Lisbeth Hall năm 2000 về “Sốt rét đang di chuyển: Biến động dân cư và lan truyền sốt rét” cho thấy sốt rét đang gia tăng ở nhiều nước và ở một số vùng dù bệnh sốt rét đã hết lưu hành. Một trong những yếu tố góp phần vào sự gia tăng trở lại này là do sự di dân đến định cư ở những vùng đất khác do nhiều lý do như: do kinh tế, do xung đột, do thiên tai....Xác định và hiểu được ảnh hưởng của sự di dân này có thể cải thiện được các biện pháp phòng chống sốt rét. Ở các nước đang phát triển, di dân liên quan đến nông nghiệp, đào vàng...và nguy cơ mắc , tử vong sốt rét là rất cao. Cũng theo phân tích này cho thấy, sốt rét là một trong những nguyên nhân tử vong cao ở đối tượng di dân ở một số vùng của Thái Lan, Sudan, Somalia, Burundi, Rwanda, và Democratic Republic của Congo. Vụ dịch mới đây nhất xảy ra ở cộng đồng dân Burundi di cư đến ở Tây Bắc Tanzania, chết do sốt rét và thiếu máu ở trẻ em dưới 5 tuổi tăng gấp 10 lần so với trước khi có dịch !important; phản ảnh sự thiếu miễn dịch của nhóm tuổi này.
Tại Hội nghị Nam Phi (2003) về dân di cư tác giả Marcia Caldas de Castro, Burton Singer đã cho thấy sốt rét gây nguy cơ mắc và tử vong cao nhất ở cộng đồng dân di cư của Cambodia đến Thái Lan, Mozambic đến Malawi, Ethiopi đến Đông Sudan.
Tại Việt Nam tình hình dân di cư tự do rất phức tạp kéo theo nguy cơ mắc và tử vong do sốt rét.
Theo số liệu của Tổng cục địa chính và Bộ NN& !important;PTNN, từ năm 1991 đến nay một số lượng lớn dân di cư tự do (DCTD) sinh sống tại 3 tỉnh Tây Nguyên (Gia Lai, Kon Tum ,Dak Lak). Đối tượng DCTD này chủ yếu là đồng bào miền núi phía Bắc (36,7%), vùng ven biển khu IV cũ (30,9%), trong đó tỉnh có dân DCTD nhiều nhất là là Cao Bằng (9.710 hộ, 48.700 khẩu), Lạng Sơn (8.500 hộ, 41.550 khẩu), Thanh Hoá (3.500 hộ, 19.200 khẩu), Lào Cai (3.200 hộ, 20.000 khẩu), Hà Giang (1.900 hộ, 6.600 khẩu), Tuyên Quang (860 hộ, 4.800 khẩu). Chia theo dân tộc: Nùng: >100.000 người, Tày:>80.000 người, Dao: >31.000người, Thái: >26.000 người, Mông: 134.000 người...Ngoài ra thống kê còn có khoảng 5.000 nhân khẩu DCTD qua lại giữa Việt Nam và Lào.
Trong đó Dak Lak là tỉnh có số DCTD lớn nhất, hiện nay có 100.000 hộ, 463.000 người. Phần lớn dân DCTD sống trong rừng sâu, tránh sự kiểm soát của chính quyền địa phương, vì theo thông báo số 52/TB-VPCP ngày 25/3/2002 của Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của nguyên Phó Thủ tướng Nguyên Công Tạng tại Hội nghị bàn biện pháp giải quyết tình trạng dân DCTD đến các tỉnh Tây Nguyên thì nếu để dân DCTD sau thời điểm 13/3/2002 thì tỉnh phải đến nhận về.
Vì lý do đó hầu hết dân di cư tự do sống lẩn tránh trong rừng sâu nơi có sốt rét lưu hành nặng, không thể tiếp cận với hệ thống y tế, nên nguy cơ mắc bệnh và tử vong do sốt rét rất cao.
Như vậy, cộng đồng DCTD sống trong vùng rừng sâu, nơi có sự lưu hành của mầm bệnh sốt rét và sự hiện diện của vectơ lan truyền, giao thông khó khăn, khó tiếp cận với hệ thống y tế, không có nhân viên y tế, nguy cơ cao mắc bệnh và tử vong do sốt rét.
Để đánh gia tình hình dân di cư và đề xuát các giửi pháp hiệu quả, được sự hỗ trợ của Quỹ toàn cầu phòng chống sốt rét Việt Nam (VGF), ngày 19-20/9/2005 Viện sốt rét KST-CT TƯ đã tổ chức Hội thảo chiến lược phòng chống sốt rét (PCSR) cho dân di cư tự do.
Tham dự Hội thảo có đại diện Văn phòng tổ chức y tế thế, Cục hợp tác xã và phát triển nông thôn, các Viện sốt rét khu vực, các tỉnh thực hiện dự án và một số tỉnh có dân di cư tự do.
Mục tiêu của Hội thảo nhằm:
1. Đánh giá tình hình và nguy cơ mắc, tử vong do sốt rét của các cộng đồng dân di cư.
2. Đề xuất các giải pháp hiệu quả để phòng chống sốt rét cho các đối tượng này.
Hội thảo đã nghe phát biểu ý kiến của các Viện, đại diện Văn phòng WHO cũng như của các tỉnh.
Ban tổ chức Hội thảo đã phân nhóm thảo luận 4 chủ đề phòng chống sốt rét cho các đối tượng sau:
1. Quản lý và phòng chống sốt rét cho dân đi
2. Quản lý và phòng chống sốt rét cho dân đến.
3. Quản lý và phòng chống sốt rét cho dân đi theo thời vụ
4. Quản lý và phòng chống sốt rét cho dân di cư nội tỉnh
Thông qua thảo luận nhóm về 4 chủ đề, các nhóm đã trình bày kết quả được tổng hợp như sau:
- QUẢN LÝ VÀ PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT CHO NHÓM DÂN ĐI
1. Phát hiện và quản lý :
Thực hiện giám sát đối tượng này theo quy định về giám sát cộng đồng của Bộ y tế. Quản lý thông qua chính quyền (thôn, bản, xã) bằng cách theo dõi, lập danh sách, số lượng, thời gian đi. Trong quản lý cần phối hợp các Ban ngành, đoàn thể như: Ban định canh định cư, Ban dân tộc, Chi cục thống kê, cộngtác viên dân số...
2. Phòng chống vectơ:
Tẩm màn cho dân mang theo: Tẩm, đóng gói và có hướng dẫn cụ thể cho người dân dễ sử dụng. Nếu có điều kiện sử dụng màn tẩm có hiệu quả kéo dài (Permanet).
Một số trường hợp có thể sử dụng võng, bọc võng hoặc kem xua để bảo vệ cho người dân khi đến các vùng có sốt rét lưu hành.
Việc thực hiện cần có sự phối hợp của UBND xã, Trạm y tes xã, cán bộ chính quyền thôn và xã.
3. Chẩn đoán và điều trị:
Cấp thuốc dự phòng có hướng dẫn sử dụng.
Cấp thuốc tự điều trị, có hướng dẫn để hạn chế nguy cơ tử vong.
Cán bộ y tế xã sẽ thực hiện nhiệm vụ chẩn đoán và điều trị.
4. Truyền thông và xã hội hoá PCSR:
Cần thiết phải lựa chọn các thông điệp dễ hiểu và phù hợp với đồng bào các dân tộc, tập trung vào tác hại, nguy cơ mắc sốt rét khi vào vùng có sốt rét lưu hành. Thông điệp cần có các nội dung sau:
- Mang theo màn để sử dụng phòng chống muỗi đốt.
- Nằm màn/màn tẩm hoá chất.
- Đến cơ sở y tế khi bị sốt, thuốc sốt rét được cấp miễn phí.
Sử dụng phương tiện loa truyền thanh, tờ rơi và truyền thông trực tiếp để truyền tải thông điệp đến người dân. Vận động các Ban ngành, Đoàn thể phối hợp thực hiện xã hội hoá PCSR đạt hiệu quả cao.
5. Kế hoạch thực hiện:
- Họp giao ban (huyện-xã) cùng với cac Ban ngành 6 tháng 1 lần
- Trao đổi thông tin từ y tế và các Ban ngành
- Ước tính số dân biến động 6 tháng 1 lần
- Lập kế hoạch quản lý và PCSR. Dự trù kinh phí, vật tư hoá chất, thuốc sốt rét...
- Tập huấn cho cán bộ y tế, tẩm màn, đóng gói
- Tổ chức cấp phát
- Xây dựng, sản xuất và phân phối vật liệu truyền thông.
- QUẢN LÝ VÀ PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT CHO NHÓM DÂN ĐẾN
1. Vấn đề đối với nhóm dân đến:
- Đối với dân đi có kế hoạch và tổ chức, có thể quản lý và phòng chống sốt rét chủ động được
- Đối với dân di cư tự do, không thể chủ động quản lý và phong chống sốt rét được. Nguyên nhân là do dân di cư tự do không báo cáo, sinh sống ở những vùng sâu khó phát hiện, lẩn tránh chính quền, y tế khó tiếp cận.
2. Mục tiêu và chiến lược phòng chống sốt rét:
Theo mục tiêu và chiến lược của Chương trình Quốc gia PCSR
3. Biện pháp PCSR thích hợp :
3.1. Biện pháp PCSR cho đối tượng di dân có kế hoạch:
Thực hiện công tác PCSR theo các biện pháp quy ước của Chương trình Quốc gia PCSR
3.2. Biện pháp PCSR cho dân di cư tự do
3.2.1. Phát hiện và quản lý
- Chính quyền thôn, xã sẽ chịu trách nhiệm phát hiện và quản lý.
- Cần phối hợp với y tế, kiểm lâm và quân đội để phát hiện đối tượng này.
3.2.2. Phòng chống vectơ
Biện pháp: Tuỳ theo điều kiện
- Cấp và tẩm màn
- Tẩm màn
- Hoặc vừa phun vừa tẩm
Hoạt động phòng chống vectơ được thực hiển bởi y tế xã, thôn bản !important; có sự chỉ đạo và phối hợp của Đội vệ sinh phòng dịch huyện.
4. Chẩn đoán và điều trị:
Cấp thuốc dự phòng, điều trị bệnh nhân theo hướng dẫn của Bộ y tế
Cán bộ y tế xã, thôn bản sẽ thực hiện nhiệm vụ chẩn đoán và điều trị. Có sự phối hợp của chính quyền thôn bản.
5. Truyền thông và xã hội hoá PCSR:
Ưu tiên sử dụng phương tiện truyền thông trực tiếp để truyền tải thông điệp đến người dân. Y tế thôn bản có vai trò quan trọng để thực hiện truyền thông trực tiếp.
- QUẢN LÝ VÀ PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT CHO NHÓM DÂN DI CƯ TỰ DO THEO THỜI VỤ
1. Vấn đề đối với nhóm dân đến:
- Không biết thời gian đi và về của những đối tượng này
- Đối tượng này còn thiếu thông tin về phòng chống sốt rét
- Khi đi vào vùng sốt rét, bị nhiễm và mang về nơi ở
- Chưa có biện pháp phòng chống vectơ thích hợp
- Tử vong cao ở đối tượng này
2. Mục tiêu và chiến lược phòng chống sốt rét:
- Nâng cao kiến thức và thực hành phòng chống sốt rét
- Tăng cường quản lý khi bị nhiễm bệnh
- Nâng cao độ bao phủ và chất lượng các biện pháp phòng chống sốt rét
- Tăng cường công tác phát hiện, chẩn đoán và điều trị.
3. Biện pháp PCSR cho đối tượng di dân có kế hoạch:
- Phát hiện và quản lý cộng đồng di cư
- Truyền thông giáo dục và xã hội hóa công tác phòng chống sốt rét
- Phòng chống vectơ với các biện háp phù hợp cho từng vùng
- Phát hiện chẩn đoán và điều trị bệnh nhân sốt rét
4. Giám sát và đánh giá:
Y tế xã và thôn bản thực hiện các hoạt động, Đội y tế dự phòng phối hợp TTPCSR tỉnh tổ chức giám sát và đánh giá định kỳ
- Xã : Hàng tháng
- Huyện: 3 tháng/1 lần
- Tỉnh : 6 tháng/1lần
- QUẢN LÝ VÀ PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT CHO NHÓM
DÂN DI CƯ NỘI TỈNH
1. Các vấn đề sốt rét trong nhóm dân di cư nội tỉnh:
1.1. Di dân theo kế hoạch: Nắm được qua Chi cục điều động lao động
- Công trường, xí nghiệp sang Lào 1-3 tháng. Công trình thủy lợi, thủy điện, giao thông. Công ty cao su, cà phê. Bộ đội xây dựng kinh tế. Làng thanh niên lập nghiệp sau khi các công trình xây dựng xong (thủy điện, thủy lợi...)
- Các cấp chính quyền chưa quan tâm về y tế (PCSR) cho dân di cư.
- Quy hoạch hành chính mới có sự xáo trộn dân cư (Tách tỉnh/huyện/xã...)
- Di chuyển dân từ vùng thấp lên vùng cao, sống xen kẽ dân sở tại thuộc vùng SRLH, có vec tơ truyền bệnh sốt rét.
- Các công trình thủy điện, thủy lợi không bảo vệ công nhân.
1.2. Di dân không theo kế hoạch:
- Đồng bào lên miền núi theo thời vụ, khó kiểm soát, không có ý thức phòng bệnh. Dân các xã biên giới (Việt Nam-Lào) qua Lào buôn bán, khai thác, thăm thân theo các đường tiểu ngạch. Số BNSR chiếm tỷ lệ cao. Dân Lào định cư tại Việt Nam.
- Tập quán đi “SIM” giao lưu văn hóa của thanh niên.
- Vào rừng khai thác trầm vàng (ngoài sự kiểm soát của chính quyền và y tế địa phương). Dân di cư theo tuyên truyền đạo trái phép và định cư các vùng SRLH (Lai Châu)
- Nhóm dân tộc La Hủ (sống trong rừng, suối...)
- Dân từ Nghệ An di dân ngoại tỉnh (Tây Nguyên) theo gia đình vào làm ăn từ những năm trước mỗi năm khoảng 10.000 người.
- Dân sang nơi ở mới lại trở về nơi ở cũ, chính quyền không thể quản lý được. Dân ngủ rẫy không có ý thức tự bảo vệ PCSR
1.3. Các vấn đề:
- Ngoài sự kiểm soát của chính quyền và y tế địa phương.
- Chiếm tỷ lệ cao trong số ca mắc sốt rét.
- Nơi di dân nội tỉnh đều là vùng SRLH nặng, tồn tại vec tơ và mầm bệnh. Chưa có sự phối hợp tốt với y tế trong vấn đề di dân
- Khả năng quản lý BNSR trong nhóm dân di cư của y tế cơ sở còn hạn chế.
2. Xác định mục tiêu, chiến lược PCSR cho nhóm dân di cư:
2.1. Mục tiêu:
- Mục tiêu chung: Quản lý được dân di cư nội tỉnh, góp phần thực hiện các mục tiêu chương trình quốc gia PCSR
- Mục tiêu cụ thể: Giảm mắc sốt rét ,giảm chết và nâng cao ý thức tự phòng chống sốt rét xảy ra cho nhóm dân di cư này.
2.2. Chiến lược:
- Chiến lược PCSR cho dân di cư phải được gắn liền với chương trình quốc gia PCSR và đưa vào mục tiêu chính trong Chiến lược PCSR 2006-2010.
3. Xác định các biện pháp PCSR cho nhóm dân di cư nội tỉnh:
3.1. Phát hiện và quản lý nhóm dân di cư nội tỉnh:
- Người phát hiện y tế xã và y tế thôn
- Thông qua y tế cơ quan, đơn vị, xí nghiệp có dân đi đến.
- Có sự phối hợp với các ban ngành đoàn thể xã (Phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh, Chữ thập đỏ...), các đơn vị quân y, biên phòng.
- Quản lý nơi đi và nơi đến.
3.2. Biện pháp phòng chống vec tơ phù hợp bảo vệ dân di cư nội tỉnh:
- Tẩm màn, võng
- Kem xua, phun các lán trại theo đúng định kỳ
- Cấp hay vận động mua màn phòng chống muỗi đốt
3.3. Chẩn đoán và điều trị sốt rét:
- Cấp thuốc phòng và tự điều trị
- Lấy lam xét nghiệm KSTSR khi về địa phương.
3.4. Phương pháp truyền thông giáo dục PCSR cho dân di cư:
- Sự chỉ đạo của các cấp bằng văn bản
- Phối hợp các ban ngành tại địa phương.
- Tuyên truyền trực tiếp và các loa đài truyền thanh.
- Vật liệu truyền thông: tranh lật, sổ tay, tờ rơi...
3.5. Kế hoạch thực hiện PCSR cho dân di cư:
- Định kỳ vào các đợt chiến dịch PCSR hàng năm hoặc bổ sung đột xuất theo biến động di dân.
- Các cơ quan, đơn vị địa phương xây dựng kế hoạch PCSR trong quy hoạch dân di cư.
- Phải hợp đồng với TTYTDP/TTPCSR bảo vệ cho dân làm việc trong các vùng sốt rét.
- Phải có văn bản chỉ đạo của ngành chủ quản và UBND tỉnh.
4. Kế hoạch:
4.1. Giám sát thực hiện biện pháp PCSR:
- Có biểu mẫu giám sát chung cho các hoạt động PCSR di cư.
- Tập huấn y tế cơ sở (huyện/xã/y tế thôn bản/y tế cơ quan/quân y, biên phòng) cách thực hiện các biện pháp PCSR cho các đối tượng này.
- Giám sát đột xuất hoặc định kỳ theo hệ thống.
4.2. Đánh giá PCSR:
- Dựa vào chỉ số (KAP, biểu mẫu giám sát)
- Chất lượng hoạt động của các tuyến.
- Điều tra cắt ngang đánh giá tỷ lệ nhiễm sốt rét
- Thu thập số liệu sốt rét của y tế địa phương và quân y biên phòng.
KHUYẾN CÁO CỦA HỘI THẢO
Sau 2 ngày thảo luận, đại biểu đã thông qua khuyến cáo như sau:
Dân di biến động hiện nay có 2 loại hình:
- Di dân có kế hoạch và tổ chức
- Di dân tự do (dưới 2 năm) : Rất khó kiểm soát về y tế và chính quyền
Hội thảo đã thống nhất các ý kiến như sau:
1. Vấn đề sốt rét đối với dân di cư tự do:
- Phát hiện và quản lý dân di cư tự do rất khó khăn
- Kiến thức và thực hành về phòng chống sốt rét ở đối tượng này còn thấp
- Tỷ lệ mắc và tử vong do sốt rét cao
- Chưa có biện pháp phòng chống muỗi hiệu quả
2. Mục tiêu phòng chống sốt rét:
2.1. Mục tiêu tổng quát:
Tăng cường quản lý, áp dụng các biện pháp phòng chống sốt rét thích hợp để giảm mắc, tử vong sốt rét ở cộng đồng dân di cư tự do nhằm góp phần thực hiện mục tiêu chương trình PCSR quốc gia
2.2. Mục tiêu cụ thể:
- Tăng cường phát hiện và quản lý cộng đồng dân di cư tự do
- Nâng cao kiến thức và thực hành của dân di cư tự do về phòng chống sốt rét
- Tăng cường độ bao phủ và chất lượng của các biện pháp
- Phát hiện sớm, chẩn đoán và điều trị kịp thời theo đúng phác đồ của Bộ y tế
3. Các giải pháp chính:
3.1. Phát hiện và quản lý cộng đồng dân di cư tự do
- Tham mưu cho chính quyền chỉ đạo tuyến dưới và các ban ngành, đoàn thể phát cộng đồng dân di cư tự do đến định cư tại địa phương
- Phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để phát hiện sớm dân di cư tự do
- Củng cố màng lưới y tế cơ sở, chú ý chế độ cho cán bộ y tế thôn bản.
- Thực hiện tốt công tác giám sát cộng đồng
- Cung cấp sổ sách theo dõi, ghi chép đầy đủ thông tin liên quan đến cộng đồng dân di cư tự do
Thực hiện công tác này cần có sự phối hợp của: y tế thôn, trạm y tế xã, đội vệ sinh phòng dịch huyện, trung tâm phòng chống sốt rét tỉnh
3.2. Truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét:
3.2.1. Phương pháp truyền thông:
- Truyền thông đại chúng: Truyền hình, loa, đài,
- Truyền thông trực tiếp: thăm hộ gia đình
- Phát tờ rơi
3.2.2. Vật liệu truyền thông: Sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu
3.2.3. Thông điệp: Cần có các nội dung sau
- Nguyên nhân gây bệnh và tác hại của bệnh sốt rét
- Ngủ màn tẩm hóa chất thường xuyên
- Đến cơ sở y tế khi bị mắc bệnh
- Uống thuốc phòng theo hướng dẫn của cán bộ y tế
- Khi mắc bệnh sốt rét phải uống thuốc đủ liều
Tổ chức thực hiện công tác truyền thống giáo dục phòng chống sốt rét như sau:
- Y tế thôn bản, xã sẽ phát tờ rơi và truyền thông trực tiếp
- Y tế trung ương và tỉnh sẽ xây dựng vật liệu và truyền thông đại chúng
3.3. Nâng cao độ bao phủ và chất lượng các biện pháp phòng chống sốt rét:
- Tham mưu quy hoạch chỗ ở cho dân di cư tự do
- Tẩm màn cho dân khi đi vào rừng và ngủ rẫy
- Phun tồn lưu, hoặc vừa phun vừa tẩm tùy điều kiện
Tổ chức thực hiện: Y tế xã thực hiện dưới sự chỉ đạo, giám sát của huyện
3.4. Phát hiện bệnh và điều trị
Các hoạt động này bao gồm:
- Lấy lam máu xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét
- Phát hiện và điều trị kịp thời
- Cấp thuốc phòng bệnh cho các đối tượng
- Cấp thuốc tự điều trị
- Ghi chép tất cả thông tin thường xuyên vào sổ sách theo dõi
Tổ chức thực hiện: Y tế xã thực hiện dưới sự chỉ đạo, giám sát của huyện
3.5. Giám sát và đánh giá:
Để giám sát và đánh giá hiệu quả phòng chống sốt rét cho cộng đồng dân di cư tự do, cần thực hiện các yêu cầu sau:
- Thiết lập các chỉ số theo dõi, đánh giá
- Báo cáo kịp thời giúp theo dõi tình hình sốt rét
- Thời hạn báo cáo: Báo cáo quý
- Chu kỳ giám sát:
§ Tỉnh giám sát huyện: 3 tháng 1 lần
§ Huyện giám sát xã: 2 tháng 1 lần
§ Xã giám sát thôn: hàng tháng
3.6. Kế hoạch:
Các tỉnh sẽ dựa vào số dân di cư, tình hình sốt rét, khả năng hiện có để lập kế hoạch vào quý IV năm 2005.
Hội thảo kết thúc vào chiều ngày 20/9/2005. Kết quả của hội thảo sẽ được các địa phương sử dụng để xây dựng và lập kế hoạch phòng chống sốt rét cho các cộng đồng dân di cư.
Ngày 26/ 9 /2005
TS Hồ Văn Hoàng