Năm 1989-1990 sau khi tách tỉnh mới, Thừa Thiên Huế đã ổn định tổ chức, xây dựng kế hoạch để chỉ đạo và thực hiện công tác phòng chống sốt rét trên địa bàn theo mục tiêu, chỉ tiêu của Dự án Quốc gia Phòng chống Sốt rét. Với các biện pháp can thiệp về tổ chức, chuyên môn kỹ thuật và xã hội đã tác động trong 15 năm (giai đoạn từ năm 1991-2005); tình hình sốt rét tại Thừa Thiên Huế đã có những chuyển biến tích cực. Số người mắc sốt rét, sốt rét ác tính đã giảm dần qua các năm, không còn tử vong do sốt rét và dịch sốt rét được khống chế không xảy ra.
Sau 15 năm can thiệp biện pháp phòng chống sốt rét, số bệnh nhân sốt rét giảm 94,18% (829/14.245), số mắc sốt rét / 1.000 dân giảm từ 15,77 xuống còn 0,74, không còn tử vong do sốt rét (năm 1991 có 66 bệnh nhân tử vong) và dịch sốt rét được khống chế không xảy ra trong nhiều năm liền mặc dù có nguy cơ dịch ở phạm vi thôn bản vào một số thời điểm. Tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét / 1.000 dân giảm từ 2,79 xuống còn 0,12. Đối tượng có nguy cơ cao như số trẻ em dưới 14 tuổi mắc sốt rét giảm 98,38% (30/1.852) và số phụ nữ có thai mắc sốt rét giảm 99,42% (1/171).
Ngoài diễn biến tình hình sốt rét được ghi nhận qua hệ thống thống kê báo cáo từ cơ sở, Trung tâm Phòng chống Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng đã tổ chức công tác điều tra, giám sát dịch tễ sốt rét tại các điểm cố định ở các vùng sốt rét lưu hành hàng năm để kiểm chứng, đánh giá tình hình một cách chủ động và khách quan. Từ năm 1991 đến năm 2000,tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét giảm từ 6,87% xuống còn 0,12%, tỷ lệ lách sưng giảm từ 4,57% xuống còn 0,25% và tỷ lệ sốt lâm sàng giảm từ 8,13% xuống còn 0,33%. Năm 2005, giám sát dịch tễ cắt ngang không phát hiện được ký sinh trùng sốt rét, lách sưng và sốt lâm sàng tại các điểm điều tra. Điều này đã phản ánh tình hình sốt rét đã bị đẩy lùi ở các vùng sốt rét lưu hành. Số bệnh nhân sốt rét do các cơ sở báo cáo chủ yếu là sốt rét ngoại lai do bị nhiễm bệnh từ các nơi khác trở về.
Giám sát hoạt động của muỗi truyền bệnh ở vùng sốt rét lưu hành qua điều tra bằng các phương pháp mồi người trong nhà, mồi người ngoài trời, bẩy đèn trong nhà, bẩy đèn ngoài nhà, soi chuồng gia súc và soi trong nhà ban ngày theo quy trình quy định ghi nhận mật độ hoạt động của muỗi truyền bệnh chủ yếu An. minimus đã giảm xuống ở mức thấp, hạn chế được sự tiếp xúc của muỗi đối với người để truyền bệnh do bị tác động bởi hóa chất diệt muỗi tẩm màn ngủ và phun tồn lưu, góp phần làm giảm mắc sốt rét ở các cơ sở vùng sốt rét lưu hành.
Để đạt được hiệu quả phòng chống sốt rét, Thừa Thiên Huế đã tích cực tổ chức triển khai thực hiện các biện pháp can thiệp với các hoạt động cơ bản theo các chỉ tiêu chủ yếu được xây dựng hàng năm. Trong 15 năm qua, đã có 2.464.141 lượt người được bảo vệ bằng hóa chất diệt muỗi, trong đó có 418.720 lượt người bảo vệ bằng phun tồn lưu và 2.045.421 lượt người bảo vệ bằng tẩm màn ngủ. Biện pháp bảo vệ bằng phun tồn lưu giảm dần và thay thế gia tăng biện pháp tự bảo vệ bằng màn ngủ tẩm hóa chất. Có 132.630 màn đôi chống muỗi được cấp cho dân nghèo ở vùng sốt rét lưu hành để nâng độ bao phủ bảo vệ từ 0,39 màn/hộ gia đình và 29,20 màn/người dân (năm 1991) lên 4,10 màn/hộ gia đình và 1,80 màn/người dân (năm 2005). Thực hiện được 340.828 lam máu xét nghiệm phát hiện bệnh qua các điểm kính hiển vi được xây dựng ở cơ sở,tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét trên lam máu xét nghiệm giảm từ 6,57% (giai đoạn 1991-1995) xuống còn 1,33% (giai đoạn 2001-2005). Ký sinh trùng sốt rét P.falciparum chiếm tỷ lệ ưu thế 75-85% nên nguy cơ sốt rét ác tính đe dọa tử vong vẫn là điều đáng quan tâm. Đã sử dụng 335.106 liều thuốc để thực hiện việc điều trị bệnh nhân sốt rét, cấp uống phòng và tự điều trị khi có sốt theo diễn biến tình hình sốt rét giảm dần hàng năm.  |
| Tẩm màn ngủ bằng hóa chất diệt muỗi để phòng chống sốt rét cho đồng bào ở thôn bản |
Công tác truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét cũng đã được chú ý thực hiện qua cả quá trình bằng nhiều kênh và nhiều đường dẫn xuống các cơ sở. Hình thức nói chuyện, phát thanh tận thôn bản, hộ gia đình và chiếu phim phòng chống sốt rét được mở rộng. Các vật liệu truyền thông giáo dục được duy trì và tăng số lượng sản xuất qua các năm. Số tin, bài viêt tuyên truyền về phòng chống sốt rét đã góp phần cho các cơ quan thông tin, báo chí của trung ương, địa phương chuyển tải những nội dung cần thiết để nâng cao sự hiểu biết của nhân dân. Phát sóng truyền hình là một hình thức đã được coi trọng trong công tác truyền thông giáo dục song hành với việc tổ chức chiếu phim tuyên truyền của các Đội chiếu phim lưu động thuộc Trung tâm Phát hành Phim và Chiếu bóng tỉnh thực hiện nhiệm vụ chính trị tại cơ sở vùng sốt rét.
Các lớp đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ phòng chống sốt rét được duy trì và tăng cường hàng năm cho các đối tượng thực hành công tác ở cơ sở để nâng cao chất lượng công tác. Trong giai đoạn 2001-2005, đã chú ý đào tạo, tập huấn cho đối tượng y tế xã, phường, thị trấn, thôn bản, tổ dân cư song song với đề án củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở của ngành y tế. Các đề tài nghiên cứu khoa học về các lãnh vực phòng chống bệnh sốt rét, các bệnh ký sinh trùng và côn trùng truyền bệnh đã được địa phương triển khai. Đã có 40 đề tài khoa học được thực hiện và có giá trị ứng dụng thực tiễn, đồng thời được đăng tải, công bố trên các Thông tin, Tạp chí Khoa học của ngành; một số đề tài được báo cáo trong các Hội nghị Khoa học của địa phương, khu vực và toàn quốc.
Sau 15 năm (từ năm 1991-2005) can thiệp các biện pháp như phòng chống muỗi truyền bệnh, phát hiện, điều trị bệnh, truyền thông giáo dục, đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho mạng lưới chuyên khoa để nâng cao năng lực các hoạt động phòng chống sốt rét . Tình hình sốt rét tại Thừa Thiên Huế đã có những chuyển biến tích cực và có hiệu quả rõ rệt. Cho đến năm 2005, số người mắc sốt rét còn 0,74/1.000 dân, không còn tử vong và dịch sốt rét . Các biện pháp can thiệp phòng chống sốt rét đã bảo đảm độ bao phủ về số lượng và chất lượng do các nguồn lực đã được Dự án Quốc gia Phòng chống Sốt rét hỗ trợ đầy đủ và mạng lưới chuyên khoa hoạt động có hiệu qủa ở các cơ sở. Tuy vậy, hiện nay địa phương đang phải đối mặt với tình hình sốt rét ngoại lai do tình trạng giao lưu, biến động; số bệnh nhân bị nhiễm bệnh từ các nơi khác ở ngoài tỉnh và ở nước CHDCND Lào về các cơ sở làm ảnh hưởng đến tính ổn định. Thừa Thiên Huế đang tích cực giải quyết có hiệu quả sốt rét nội địa, khống chế sốt rét ngoại lai, tiếp tục đẩy lùi bệnh sốt rét ở vùng sốt rét lưu hành và chủ động ngăn chận nguy cơ thảm họa sốt rét quay trở lại trên địa bàn, tiến tới loại trừ bệnh sốt rét ra khỏi cộng đồng trong thời gian tới.