Ngày Tỵ nạn thế giới được tổ chức vào 20/6 hàng năm nhằm nhắc nhở chúng ta về tình trạng nguy cấp của những người tị nạn trên thế giới. Năm 2015, có hơn 50 triệu người dân thường đã chạy trốn khỏi nhà cửa của mình và đang sống trong điều kiện vô cùng tồi tệ. Bệnh sốt rét ảnh hưởng không đồng đều hay bất cân đối đến hầu hết các nhóm dân dễ bị tổn thương bao gồm cả những người chuyển dời nơi ở trong phạm vi quốc gia và qua các quốc gia khác và bao gồm những người tị nạn ở các vùng có bệnh sốt rét lưu hành.
Sự thay đổi nơi cư trú có nghĩa là những người từ bỏ chỗ ở quen thuộc đến nơi sống không quen thuộc, nguy cơ bệnh tật hoặc không ổn định như ngủ ngoài trời, làm việc vào ban đêm hoặc ở gần khu vực có muỗi truyền bệnh sốt rét, sống trong những ngôi nhà quá đơn sơ với sự hạn chế sử dụng các biện pháp phòng ngừa và điều trị bệnh sốt rét. Người tị nạn còn phải đối mặt với những trở ngại/ thách thức lớn khác khi tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Sự phơi nhiễm của người dân với bệnh sốt rét tăng lên đáng kể khi di chuyển từ vùng có sự lan truyền bệnh sốt rét nhẹ đến vùng có sự lan truyền bệnh sốt rét cao, do họ không có khả năng miễn dịch với bệnh và có ít kiến thức về phòng chống hoặc điều trị bệnh sốt rét đúng.
Tình trạng thay đổi nơi cư trú ở miền Nam Sudan là một ví dụ điển hình, tỷ lệ mắc và tử vong do bệnh sốt rét tăng lên ở những người tị nạn trên tất cả các nhóm tuổi. Số người tị nạn càng cao, tác động càng lớn.
Bất chấp những thách thức, tiến bộ trong việc kiểm soát bệnh sốt rét trong tình trạng khủng hoảng ở khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi là một yếu tố quan trọng đến các thành quả đạt được trong việc giảm gánh nặng do bệnh sốt rét đã thực hiện được kể từ năm 2000.
Cao ủy Liên hợp quốc về Người tị nạn (UNHCR) và các tổ chức khác cung cấp màn tẩm hóa chất tồn lưu lâu dài (LLINs_Long lasting insecticide treated nets) cho người tị nạn như là một phần của các gói cứu trợ cốt lõi để đáp ứng với tình trạng khẩn cấp ở các quốc gia có lưu hành bệnh sốt rét. Sự lựa chọn công cụ để bảo vệ người dân sống trong các trại, làng mạc và thị trấn trong trường hợp khẩn cấp bao gồm việc sử dụng các tấm nhựa tẩm hóa chất phòng chống muỗi truyền bệnh sốt rét (ITPS_insecticide-treated plastic sheeting) để xây dựng nơi nương tựa và vật liệu tẩm hóa chất PCSR khác.
Đối tác Đẩy lùi sốt rét (RBM_Roll Back Malaria) đang làm việc này để đảm bảo rằng 50 triệu người tị nạn và người di tản có thể tiếp cận với các dịch vụ phòng chống bệnh sốt rét tốt hơn.
Một số thách thức trong PCSR hiệu quả ở các nơi người tị nạn sinh sống: Kinh nghiệm từ Chad và Tanzania
Nhóm tác giả gồm Nadine Ezard, John Haskew, Lucas Machibya và Raoufou Makou cho biết sốt rét là một trong những căn bệnh xã hội và truyền nhiễm quan trọng và là gánh nặng bệnh tật cho nhóm dân tị nạn. Phần lớn dân tị nạn ngày nay sống trong các vùng SRLH: 19 triệu người theo con số ghi nhận của Cao ủy Liên Hiệp quốc về người tị nạn (United Nations High Commissioner for Refugees_UNHCR). Nhiều yếu tố có thể thúc đẩy nhóm dễ bị thương tổn với sốt rét và bệnh tật và tử vong trong số nhóm dân tị nạn. Như các bài báo đã từng mô tả, các phụ nữ có thai và trẻ em nhỏ là đặc biệt có nguy cơ bị sốt nặng cũng như tử vong: Trên nhiều tình cảnh dân tị nạn, các phụ nữ đang nuôi con nhỏ và trẻ em chiếm phần lớn trong quần thể. Các trại tị nạn thường là các vùng đất rìa – nơi mà sốt rét dễ phát sinh. Dân tị nạn có thể suy dinh dưỡng và khó có thể tiếp cận đầy đủ thức ăn. Tình trạng dân di cư có thể mang người tị nạn đến các vùng có SRLH cao hơn các vùng mà họ sinh sống trước đó.
Các chương trình phòng chống có thể không đạt được hay vỡ kế hoạch do xung đột xảy ra giữa các nhóm người. Do vậy, làm thế nào thiết lập các biện pháp phòng chống sốt rét có hiệu quả là thách thức lớn như một báo động khẩn cấp tại Chad và các tình trạng bất ổn định ở Tanzania.
Các dẫn chứng ở Chad và Tanzania mô tả tính khả thi thiết lập các biện pháp phòng chống khẩn cấp trong các nơi tị nạn. Thành lập cơ sở chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời bằng test nhanh DRTs và thuốc phối hợp có thuốc artemisinin (ACTs) là cần thiết.
Một số khía cạnh khác có thể can thiệp vào như phun tồn lưu trong nhà và màn tẩm hóa chất,…Thiếu sự tham gia của cộng đồng thì chương trình tẩm màn sẽ rất khó khăn. Do đó, cần phải tiến hành kế hoạch và thử nghiệm trước khi đưa ra áp dụng rộng rãi trong cộng đồng dân tị nạn. Tại Chad, đôi khi chưa ưu tiên hướng đến các chiến dịch như thế. Các ví dụ trên thày rằng phòng chống sốt rét trên nhóm dân tị nạn là có thể nhưng cần khẩn cấp hơn nữa và tình hình môi trường phải ổn định.
Tài liệu tham khảo
1.P. Bloland and H. Williams, Malaria Control During Mass Population Movements and Natural Disasters (Washington DC: National Academies Press, 2003).
2.M. A. Connolly (ed.), Communicable Disease Control in Emergencies: A Field Manual (Geneva: WHO, 2005)
3.D. Warrel and H. Gilles (eds), Bruce Chwatt’s Essential Malariology, Fourth Edition (London: Arnold, 2002).
4.WHO, Malaria Control in Complex Emergencies: An Inter-agency Field Handbook (Geneva: WHO, forthcoming, 2005).
5.WHO/Roll Back Malaria consultation on ‘Best Practices and Lessons Learnt: Implementing Malaria Control in Complex Emergencies in Africa 2000-2004’, November 2004.