Sốt rét và sốt xuất huyết là hai bệnh nhiệt đới thường gặp do muỗi truyền có tỷ lệ mắc, tỷ lệ chết cao, tốc độ lan truyền nhanh và khả năng gây dịch lớn so với các bệnh truyền nhiễm gây dịch khác. Ở nhiều nước đang phát triển, đặc biệt là các nước vùng Châu Phi và khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam; số ca bệnh sốt rét và sốt xuất huyết chiếm hàng đầu so với cơ cấu bệnh tật chung tại các bệnh viện, nguy cơ xảy dịch cao, luôn đe dọa đến tính mạng con người, hạn chế sự phát triển kinh tế và xã hội.
Một trong những khó khăn phải đối mặt trong phòng chống các bệnh do muỗi truyền trên thế giới cũng như Việt Nam trong quản lý điều trị là chưa kiểm soát được bệnh nhân ngay từ tuyến y tế cơ sở (xã, thôn bản), các biện pháp phòng chống véc tơ chưa bảo vệ được các nhóm dân di biến động, ý thức tự bảo vệ của người dân ở các vùng sốt rét còn hạn chế. Ước tính ở những nước bị ảnh hưởng sốt rét chiếm 30% giường bệnh, một bệnh nhân sốt rét mất ít nhất 10 ngày làm việc, một gia đình nghèo phải tiêu phí khoảng 25% thu nhập hàng tháng cho điều trị sốt rét; tốc độ phát triển kinh tế và xã hội bị hạn chế bởi những chi phí trực tiếp và gián tiếp cho sốt rét, chính phủ phải tiêu tốn 40% tổng chi phí cho việc chăm sóc sức khỏe công cộng về tiện nghi y tế, phòng chống muỗi và nghiên cứu, giáo dục liên quan đến sốt rét.
Ở Việt Nam được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước về chương trình phòng chống sốt rét nên một số năm gần đây bệnh sốt rét đã có xu hướng giảm thấp, nhưng nguy cơ sốt rét vẫn còn cao ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên với số mắc sốt rét hàng năm gần 50%, số chết sốt rét trên 80% so với cả nước và có thể phát thành dịch bất cứ lúc nào; việc chỉ đạo phòng chống sốt rét khó khăn do chưa kiểm soát được số ca nhiễm bệnh ở các đối tượng chưa có biện pháp bảo vệ như dân di cư tự do, dân đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới… trong khi các biện pháp phòng chống đang áp dụng (điều trị bệnh nhân, phun/tẩm màn) mới chỉ có tác dụng bảo vệ cho những vùng dân cư ổn định. Sốt xuất huyết cũng là bệnh do véc tơ truyền với số bệnh nhân lên đến gần 100.000 cavà số tử vong gần 100 ca trong cả nước hàng năm, tập trung cao ở các tỉnh, thành phố phía Nam nhưng chưa có biện pháp phòng chống véc tơ có hiệu quả, nếu không có mô hình kiểm soát các bệnh do véc tơ truyền ngay từ tuyến y tế cơ sở thì rất khó có thể hạn chế tỷ lệ bệnh một cách bền vững.
Hiện nay Trung tâm Y tế dự phòng tuyến huyện đã được hình thành trong phạm vi cả nước, nhưng chưa có phương pháp hoạt động hiệu quả và chưa đủ năng lực kiểm soát các bệnh do véc tơ truyền, đặc biệt là bệnh sốt rét và sốt xuất huyết; trong khi Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn là đơn vị trực thuộc Bộ Y tếtại khu vực miền Trung-Tây Nguyên được giao nhiệm vụ nghiên cứu, chỉ đạo phòng chống sốt rét, ký sinh trùng và các bệnh do côn trùng truyền lại rất có nhiều tiềm năng về kiểm soát các bệnh do véc tơ truyền. Mặt khác trong hình thái sốt rét hiện nay số mắc và tử vong sốt rét tập trung chủ yếu ở các đối tượng di biến động nên vai trò của màng lưới y tế xã/thôn bản hết sức quan trọng giảm tải áp lực điều trị tại các tuyến bệnh viện, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phát hiện, quản lý và điều trị sớm bệnh nhân từ tuyến cơ sở nên khó khăn cho việc thực hiện mục tiêu giảm mắc và hạn chế tử vong.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu mô hình quản lý các bệnh do véc tơ truyền ở tuyến y tế cơ sở nhằm đạt được các mục tiêu :
(i) nâng cao năng lực của Trung tâm Y tế dự phòng huyện trong kiểm soát các bệnh do véc tơ truyền là sốt rét và sốt xuất huyết
(ii) phát hiện, điều trị sớm ca bệnh và quản lý thuốc cấp tự điều trị có hiệu quả cho cộng đồng có nguy cơ nhiễm sốt rét cao thông qua màng lưới y tế xã/thôn bản
(iii) ứng dụng có hiệu quả biện pháp truyền thông giáo dục phòng chống các bệnh sốt rét, sốt xuất huyết và nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân vùng sốt rét lưu hành. Mô hình quản lý các bệnh do véc tơ truyền được tiến hành trong hai năm 2008-2010 tại huyện Vân canh, tỉnh Bình Định thuộc khu vực miền Trung-Tây Nguyên có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sự phát triển của các véc tơ truyền bệnh, đặc biệt là muỗi sốt rét và sốt xuất huyết.
Phạm vi thực hiện là theo dõi chỉ số bệnh tật hàng tháng và lồng ghép mô hình phòng chống các bệnh do véc tơ truyền thông qua Trung tâm Y tế dự phòng hiuện Vân Canh; chọn 6 xã Canh Thuận, Canh Hòa, Canh Vinh, Canh Hiển, Canh Hiệp và thị trấn Vân Canh là trọng điểm về sốt rét và sốt xuất huyết, có tỷ lệ người dân tộc thiểu số cao làm nhóm đích cho mô hình nghiên cứu; đối tượng nghiên cứu là toàn bộ người dân đang sinh sống ở 2 xã Canh Thuận và Canh Hòa, kể cả cá nhân hoặc hộ gia đình di cư hay nhập cư từ nơi khác đến.
|
Khám chữa bệnh cho đồng bào dân tọc thiểu số |
Nội dung nghiên cứu:
(i) Giám sát, quản lý ca bệnh: giám sát dân nguy cơ sốt rét, giám sát nguy cơ dịch; giám sát hoạt động quản lý ca bệnh; giám sát việc sử dụng thuốc cấp tự điều trị (stand-by treatment); thu thập số liệu thông qua y tế thôn bản, y tế xã và Trung tâm Y tế dự phòng huyện; tổ chức giao ban định kỳ hàng tháng với y tế thôn bản, y tế xã và huyện; thành lập các Box phát hiện ca bệnh và cấp thuốc miễn phí tại mỗi làng trong phạm vi nghiên cứu.
(ii) Giám sát véc tơ: điều tra đánh giá thành phần, mật độ véc tơ theo các phương pháp thường quy theo quy trình của tổ chức Y tế thế giới (WHO), giám sát phun tẩm, giám sát thói quen ngủ màn của người dân, giám sát các yếu tố môi trường liên quan đến sự phát triển và phục hồi của véc tơ truyền bệnh chính
(iii) Điều tra kiến thức, thái độ và thực hành phòng chống bệnh: tỷ lệ người dân nằm màn hoặc màn tẩm hóa chất, tỷ lệ người dân đi rừng, ngủ rẫy; tỷ lệ trẻ em, người già, phụ nữ mang thai không sử dụng màn chống muỗi; hiểu biết về tác hại của bệnh sốt rét và sốt xuất huyết
(iv) Truyền thông phòng chống bệnh do muỗi truyền: cung cấp các loại panô, áp phích, tờ rơi, tranh lật đến từng hộ gia đình; các trang thiết bị cơ bản cho truyền thông phòng chống bệnh như băng đĩa phát trên loa truyền thanh của xã và huyện; mở rộng hình thức truyền thông “Hội thi phòng chống sốt rét và sốt xuất huyết” để trên cơ sở đó đề xuất biện pháp truyền thông có hiệu quả
(v) Đào tạo và đào tạo lại: mở các lớp đào tạo, đào tạo lại cho các tuyến y tế cơ sở như kỹ năng truyền thông cho y tế thôn bản; kỹ thuật lấy lam, cấp thuốc tự điều trị, test chẩn đoán nhanh; kỹ năng tiếp cận trao đổi thông tin cho y tế xã và y tế thôn bản; kỹ thuật kiểm soát các bệnh do véc tơ truyền và quản lý ca bệnh cho cán bộ y tế xã và Trung tâm Y tế dự phòng huyện; cập nhật thường xuyên các phác đồ điều trị do Bộ Y tế ban hành cho đội ngũ cán bộ điều trị các tuyến bằng hình thức tập huấn, hội thảo hoặc sinh hoạt khoa học chuyên đề
(vi) Cập nhật thông tin mô hình trên Trang tin điện tử (Website): các thông tin hoạt động và tiến độ thực hiện mô hình sẽ được đăng tải thường xuyên trên Website của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn để giúp cho các Trung tâm PCSR/Trung tâm YTDP các tỉnh trong cả nước trao đổi kinh nghiệm trước khi tổ chức nghiệm thu mô hình vào cuối năm 2010.
Mô hình quản lý sẽ đưa ra được phương án kiểm soát các bệnh do véc tơ truyền phù hợp với tuyến y tế cơ sở, giải pháp quản lý thuốc cấp tự điều trị và hiệu quả sử dụng cho các nhóm dân di biến động xa cơ sở y tế; đồng thời góp phần làm giảm nguy cơ mắc bệnh sốt rét và sốt xuất huyết tại huyện miền núi Vân Canh để trên cơ sở đó áp dụng chỉ đạo kiểm soát dịch bệnh ở các vùng trọng điểm khu vực miền Trung-Tây Nguyên.