Theo Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số lần thứ nhất năm 2010, Việt Nam là một quốc gia thống nhất có 54 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó có 53 dân tộc thiểu số với số dân trên 12 triệu người, chiếm khoảng 14% dân số cả nước. Trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, các dân tộc luôn kề vai sát cánh, gắn bó bên nhau làm nên các thắng lợi vẻ vang; đặc biệt từ khi có Đảng và Bác Hồ lãnh đạo, truyền thống đoàn kết quý báu đó được nâng lên tầm cao mới và được coi như một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến sự thành công của cách mạng Việt Nam.
Đặc điểm các đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta là sống cư trú xen ghép trên địa bàn miền núi, biên giới, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và môi trường sinh thái; dọc biên giới phía Bắc và phí Tây có nhiều cửa ngõ thông thương giữa nước ta với các nước láng giềng trong khu vực và thế giới. Do điều kiện tự nhiên khó khăn, địa hình phức tạp, vùng dân tộc thiểu số nước ta vẫn là vùng nghèo, chậm phát triển so với các vùng khác, nhưng các dân tộc luôn kề vai, sát cánh, chung lưng đấu cật cùng đồng bào cả nước xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chính sự liên kết giữa các thành phần dân cư sớm có ý thức tự giác cùng chung sống trong một đất nước ngay từ bình minh lịch sử đã tạo nên một cộng đồng quốc gia dân tộc bền vững; đại đoàn kết các dân tộc là đặc điểm nổi bật xuyên suốt các thời kỳ lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng truyền thống đó ngày càng được củng cố và phát triển làm nên sức mạnh dân tộc Việt Nam.
 |
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Giàng Seo Phử thông báo nội dung Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số lần thứ nhất (Ảnh: A.C) |
Ngay từ khi mới thành lập trong Cương lĩnh chính trị, Đảng ta đã xác định công tác dân tộc là một trong những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; đồng bào dân tộc thiểu số là lực lượng to lớn, là bộ phận quan trọng của cách mạng nước ta; để giành được độc lập, Đảng ta đã tiếnhành các phong trào vận động đoàn kết các dân tộc, dựa vào vùng dân tộc và miền núi để xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân tộc và đại đoàn kết dân tộc có vai trò quan trọng cấp bách và mang tính chiến lược lâu dài của cách mạng Việt Nam; thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã tập hợp được nhân dân cả nước, trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số theo Đảng, theo cách mạng tiến hành tháng lợi 2 cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc đánh đuổi Thực dân Pháp, Đế quốc Mỹ và giải phóng hoàn toàn đất nước. Sau khi nước nhà thống nhất, trên con đường đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiềuchính sách quan tâm chăm lo phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng-an ninh cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi; nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng sự nỗ lực vươn lên của đồng bào các dân tộc, tình hình kinh tế-xã hội vùng dân tộc đã có những bước chuyển biến quan trọng; nhiều dân tộc trước đây sống du canh, du cưđã được ổn định chỗ ở, có đất sản xuất lâu dài, các địa phương vùng dân tộc đạt tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo chiều hướng tiến bộ, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc được cải thiện rõ rệt; hàng năm số hộ nghèo giảm 4-5%, bộ mặt nông thôn vùng dân tộc và miền núi đã thay đổi rõ rệt. Công tác giáo dục đào tạo, công tác chăm sóc sức khỏe, công tác phát triển văn hóa dân tộcđược chú trọng và đạt nhiều thành quả quan trọng; hệ thống chính trị các cấp được củng cố, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được tăng cường; tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số trong các cơ quan Đảng và Nhà nước và các đoàn thể chính trị-xã hội từ Trung ương đến địa phương ngày càng cao, trong đó có nhiều người đang giữ những trọng trách lãnh đạo và được Đảng, Nhà nước khen thưởng và phong tặng nhiều phần thưởng cũng như danh hiệu cao quý.
|
Hơn 1.700 đại biểu ưu tú và tiêu biểu nhất của 54 dân tộc trên cả nước sẽ tụ hội về thủ đô trong ĐH ĐBDTTS Việt Nam lần thứ nhất - Ảnh minh họa. |
Tuy nhiên bên cạnh những thành quả đạt được, công tác dân tộc cũng còn một số mặt hạn chế như tỷ lệ hộ nghèo ở vùng dân tộc thiểu số còn cao so với mặt bằng chung so với cả nước, kết quả giảm nghèo chưa thật sự vững chắc, số hộ tái nghèo còn cao; kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các vùng dân tộc còn chậm, quy mô sản xuất nhỏ. Manh mún, sức cạnh tranh thấp; đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống, chất lượng nguồn nhân lực thấp, đội ngũ cán bộ còn thiếu và yếu; tổ chức chính quyền cơ sở ở một số nơi còn yếu kém, hiệu quả hoạt động chưa cao, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở một số nơi còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định. Nguyên nhân những hạn chế này là do địa bàn dân tộc chủ yếu là vùng sâu, vùng xa, địa hình chia cắt đi lại khó khăn; một số bộ, ngành, địa phương chưa nhận thức đầy đủ tầm chiến lược của công tác dân tộc, vùng dân tộc và miền núi; một số nơi triển khai chính sách dân tộc chưa hiệu quả, chưa thực hiện tốt việc lồng ghép, phối kết hợp các chính sách, chương trình/dự án trên địa bàn; một số nơi cán bộ chưa gần dân, chưa nắm bắt được tâm tư nguyện vọng, tình cảm của đồng bào, công tác tuyên truyền phổ biến chính sách dân tộc chậm đổi mới; một số nơi cán bộ và đồng bào còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại hoặc bằng lonhf với cuộc sống hiện tại, chưa chủ động sáng tạo để phát huy nội lực để phấn đấu vươn lên.
Trong thời gian tới công tác dân tộc có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn thách thức trong bối cảnh trên thế giới bên cạnh xu thế hòa bình, hợp tác phát triển thì vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, ly khai, khủng bố còn phức tạp và diễn biến khó lường; đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực vươn lên, hạn chế nguy cơ, tận dụng thời cơ biến khó khăn thách thức thành cơ hội, phát huy tiềm năng thế mạnh, tạo ra các cơ hội phát triển vùng dân tộc nhanh mạnh và bền vững, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Từ Đại hội này, dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, đồng bào các dân tộc phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần đại đoàn kết, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, biến nguy cơ thách thức tahnhf cơ hội phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo cùng cả nước thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.