Đẩy lùi sốt rét Tiểu vùng sông Mê-Kông (The Mekong roll back malaria)
Tiểu vùng sông Mê Kông gồm 6 quốc gia (Thailand, Laos, Cambodia, Myanmar, Việt Nam và tỉnh Yunan của Trung Quốc) có chung một vài đặc điểm dịch tễ học sốt rét, bệnh sốt rét thường được lưu hành trong vùng rừng núi và vùng sâu vùng xa dọc theo các đường biên giới quốc gia, cư dân là người dân tộc thiểu số nghèo với hiện tượng giao lưu dân số lớn, đặc biệt là người nhập cư trái phép (illegal migrants) qua biên giới, ký sinh trùng sốt rétPlasmodium falciparum đa kháng đang lưu hành kháng với nhiều loại thuốc chống sốt rét mức độ cao đặc biệt dọc theo đường biên giới quốc gia. Tổ chức thảo luận những vấn đề này ở cấp độ khu vực với tiêu đề “Đẩy lùi sốt rét Tiểu vùng sông Mê-Kông” (The Mekong roll back malaria)được thực hiện vào tháng 12 năm 2000, tiếp theo Hội Nghị do chính phủ Việt Nam tổ chức vào tháng 3 năm 1999, đãcùng nhau mang đến sự giới thiệu chung của 6 quốc gia với sự tham gia của Tổ chức y tế thế giới (WHO), UNICEF, UNDP, Cộng đồng châu âu (The European Commission), thành viên Ban tổ chức và các tổ chức phi chính phủ khác (Theo WHO 2001).
Dự án “Đẩy lùi sốt rét Tiểu vùng sông MêKông” với mục tiêu tăng cường năng lực của chương trình phòng chống sốt rét quốc gia, các dịch vụ y tế, các đối tác phòng chống sốt rét và các thành viên khác, nhằm giảm tỷ lệ mắc sốt rét trong số 144 triệu dân có nguy cơ đang sinh sống trong tiểu vùng sông Mê Kông. Mục tiêu cuối cùng là giảm tỷ lệ tử vong sốt rét ít nhất 50% vào năm 2010 (so với năm 1998) và giảm tỷ lệ mắc mới sốt rét(Krongthong Thimasarn 2003). Trong năm 1999 Việt Nam và Tỉnh Yunnan Trung Quốc có tỷ lệ mắc sốt rét thấp nhất trong 6 quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mê Kong, trong khi Cambodia và Lào có tỷ lệ hiện mắc mới (malaria incidence) và tỷ lệ tử vong sốt rét hàng năm cao nhất, cùng với Myanmar nơi có tỷ lệ lưu hành sốt rét theo bảng đánh giá sau:
Quốc gia | Dân số ´ 106 | Số ca Bệnh (Số ca chưa biến chứng + nặng) | Số ca nghi ngờ (chưa biến chứng + nặng) | Tử vong sốt rét (xác định + nghi ngờ) | Số ca xét nghiệm |
| Tổng số | Nguy cơ | Tổng số | Tỷ lệ mắc(103) | Tổng số | Tỷ lệ mắc | Tổng số | Tỷ lệ chết (105) | Tổng số | Tỷ lệ dương tính (%) |
Cambodia | 11.438 | 3.468 | 64.679 | 5.65 | 74,428 | 6.51 | 891 | 7.79 | 163,548 | 39.06 |
China (Yunan) | 40.092 | 12.246 | 18,406 | 0.46 | - | - | 50 | 0.125 | 631,065 | 2.92 |
Lào | 5.091 | 5.091 | 28,050 | 5.51 | 30,858 | 6.06 | 338 | 6.6 | 164,103 | - |
Myanmar | 47.350 | 37.406 | 104,753 | 2.21 | 313,354 | 6.62 | 3,182 | 6.72 | 362,994 | 28.86 |
Thailand | 56.706 | 12.304 | 209,563 | 3.70 | - | - | - | - | 4,455,315 | 4.70 |
Viêt Nam | 77.455 | 42.486 | 75,534 | 0.98 | - | - | 190 | 0.2 | - | - |
Việt Nam và phòng chống sốt rét
Trong số 6 quốc gia, Việt Nam có khả năng thành công nhất trong lịch sử phòng chống sốt rét (theo Schuftan 2000). Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thực hiện chương trình tiêu diệt sốt rét vào năm 1976, sau khi kết thúc cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ, khi đất nước được thống nhất. Tổng số diện tích 330.991 km2 được chia ra 64 tỉnh với tổng dân số 82 triệu dân, Việt Nam là nước đa văn hoá với 54 dân tộc; dân tộc Kinh chiếm 85% dân số, sinh sống chủ yếu tại tam giác sông Hồng, đồng bằng ven biển miền Trung, tam giác sông Mê Kông và những thành phố; còn lại 53 dân tộc thiểu số khác với tổng dân số 12 triệu người phân bố tại vùng rừng núi từ phương bắc đến phương nam, ba phần tư quốc gia là rừng núi, hầu hết được bao phủ bởi rừng cây cho đến năm 1920. Sau đó sinh cảnh rừng cây bị tàn phá do chiến tranh, áp lực dân số cao và sự phát triển nhanh nền kinh tế là nguyên nhân chính làm thay đổi môi trường nguyên thuỷ trong 10 năm qua. Từ năm 1935 đến 1999 độ bao phủ của rừng nguyên sinh giảm từ 14 triệu hecta xuống còn 9,4 triệu hecta, đã mất đi 33% diện tích rừng tự nhiên (theo CIFO 2006).
Việt Nam và bệnh sốt rét có một lịch sử dài chung củabệnh tật, đã được đề cập trong y văn 10 thế kỷ như “rét-rừng” (forest-cold) với vài loài dược thảo điều trị bệnh sốt rét (theo Hardy 2000; vũ thị Phan 1998). Ngày nay được gọi là “sốt rét” (cold-fever) và hầu hết hiệu quả điều trị được dựa vào dẫn chất Artemisin (Artemisia annua) có trongloài dược thảo xưa của Trung Quốc, là “Thanh hao hoa vàng”.
Việt Nam có một kinh nghiệm thực tế quí báu về phòng chống sốt rét qua hơn 100 năm, bao gồm kiến thức sâu rộng với mô hình kỹ thuật quan trọng từ thực địa. Hơn nữa bệnh sốt rét xen lẩn với chiến tranh trong suốt hơn nửa thế kỷ 20, đã cải thiện tư tưởng “quốc gia bị đe doạ” và “Chủ nghĩa yêu nước” để chiến đấu với bệnh tật như một trận chiến đến thắng lợi. Năm 1991, khi Việt Nam quyết định chương trình phòng chống sốt rét mới, những kiến thức, kinh nghiệm trong quá khứ là tiền đề cho sự thành công của chương trình. Những yếu tố hậu thuẫn như sự bền vững chính trị cam kết cho các vấn đềthiết yếu như tài chính, kỹ thuật và nguồn nhân lực ở các cấp, sự tài trợ của Tổ chức Y tế thế giới và các nguồn viện trợ quốc tế.
Ngày nay, mặc dù nhiều cuộc chiến (battles) đã chiến thắng, chiến tranh chống lại bệnh sốt rét vẫn chưa kết thúc.