Người dân tộc Nùng gồm các nhóm địa phương như Nùng Xuồng, Nùng Giang, Nùng An, Nùng Lòi, Nùng Phàn Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh, Nùng Quy Rịn, Nùng Dín thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái của hệ ngôn ngữ Thái-Kadai, sống tập trung ở các tỉnh Đông Bắc Bắc Bộ như Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang... chiếm tỷ lệ tới 84 %. Hiện nay có một bộ phận dân di cư vào các tỉnh Tây Nguyên với tỷ lệ 11 %, chủ yếu ở tại tỉnh Đăk Lăk. Người dân tộc Nùng có quan hệ gần gũi với người Tày và người Choang (Zhuang) sống dọc biên giới với Trung Quốc. Tại Trung Quốc, người Nùng cùng với người Tày được xếp chung vào dân tộc Choang.
Dân số và địa bàn cư trú
Dân số người dân tộc Nùng theo Thống kê dân số Việt Nam vào năm 1999 là 856.412 người. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người dân tộc Nùng ở Việt Nam có dân số 968.800 người, đây là dân tộc có dân số đứng hàng thứ 7 tại Việt Nam, có mặt trên tất cả 63 tỉnh, thành phố của cả nước. Người dân tộc Nùng cư trú tập trung tại các tỉnh Lạng Sơn 314.295 người, chiếm tỷ lệ 42,9 % dân số toàn tỉnh và 32,4 % tổng số người Nùng tại Việt Nam, tỉnh Cao Bằng 157.607 người, chiếm tỷ lệ 31,1 % dân số toàn tỉnh và 16,3 % tổng số người Nùng tại Việt Nam, tỉnh Bắc Giang 76.354 người, tỉnh Đăk Lăk 71.461 người, tỉnh Hà Giang 71.338 người, tỉnh Thái Nguyên 63.816 người, tỉnh Bắc Cạn 27.505 người, tỉnh Đăk Nông 27.333 người, tỉnh Lào Cai 25.591 người, tỉnh Lâm Đồng 24.526 người, tỉnh Bình Phước 23.198 người...
Đặc điểm kinh tế và văn hoá
Nguồn sống chính của người dân tộc Nùng là lúa và ngô. Họ kết hợp làm ruộng nước ở các vùng khe dọc với trồng lúa cạn trên các sườn đồi. Người Nùng còn trồng nhiều cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm như quýt, hồng...Hồi là cây quý nhất của người dân tộc Nùng, hàng năm mang lại nguồn lợi đáng kể. Các ngành nghề thủ công đã phát triển, phổ biến nhất là nghề dệt, tiếp đến là nghề mộc, đan lát và nghề rèn, nghề gốm.
Về tập tục ăn uống, người dân tộc Nùng thích ăn các món xào mỡ lợn. Món ăn độc đáo và được coi trọng, sang trọng của người Nùng là "Khau nhục". Tục mời nhau uốngrượu chéo chén có lịch sử từ lâu đời, nay đã thành tập quán của người dân tộc Nùng.
Người dân tộc Nùng có một kho tàng văn hóa dân gian phong phú và có nhiều làn điệu dân ca đậm đà bản sắc dân tộc. Tiếng Sli giao duyên của thanh niên Nùng Lạng Sơn hòa quyện vào âm thanh tự nhiên của núi rừng gây ấn tượng sâu sắc cho những ai đã một lần lên xứ Lạng. Then là làn điệu dân ca tổng hợp có lời, có nhạc, có kiểu trang trí, có hình thức biểu diễn đã làm rạo rực tâm hồn bao chàng trai Nùng khi ở xa quê hương.
Lễ hội nổi tiếng thu hút được nhiều người, nhiều lứa tuổi khác nhau là hội "Lùng tùng", có nghĩa là hội xuống đồng được tổ chức vào tháng giêng hàng năm.
Người dân tộc Nùng ăn cơm tẻ là chủ yếu. Trong những ngày lễ, tết; người Nùng thường làm nhiều loại bánh từ gạo và có tục uống rượu bằng thìa. Họ thường ăn cơm trưa khoảng 2 giờ chiều và buổi tối thường ăn lúc 8 giờ tối.
Về trang phục và nhà cửa
Nam, nữ người dân tộc Nùng đến tuổi trưởng thành đều bịt một chiếc răng bằng vàng ở hàm trên và như thế được xem là làm đẹp, là người sang trọng. Phụ nữ mặc áo năm thân và cài một hàng cúc bằng nút vải phía bên nách phải. Tùy từng nhóm Nùng địa phương mà áo dài, ngắn, rộng, hẹp khác nhau, nhưng ở đoạn cổ tay và lá sen bao giờ cũng đắp một miếng vải và bốn túi áo không có nắp. Nam, nữ đều mặc một loại quần nhuộm màu chàm, cạp to, ống rộng, dài tới tận mắt cá chân. Phụ nữ Nùng thường đeo tạp dề trước bụng, khi gồng gánh còn mang thêm miếng nệm vai. Điểm khác nhau giữa các nhóm dân tộc Nùng được biểu hiện là cách đội khăn và các loại khăn trang trí khác nhau đôi chút.
Người dân tộc Nùng thường ở nhà sàn và nhà nửa sàn nửa đất, trong đó nhà sàn là kiểu nhà truyền thống ưa thích của họ. Nhà thường khá to, rộng, có ba gian, vách thường làm bằng gỗ và lợp ngói máng. Nhà đất hiện nay là cấu trúc nhà ở khá phổ biến ở vùng người Nùng. Nhà được chia làm hai phần bởi vách ngăn, trừ một lối đi ở gian giữa, phần trong đặt bếp, là nơi sinh hoạt của phụ nữ trong gia đình. Phần ngoài, dành cho nam giới và đặt bàn thờ tổ tiên. Phía sau nhà có cầu thang phụ, ở đấy có máng nước dùng để tắm rửa. Phân chia này cũng áp dụng đối với khách là nam hay nữ. Nhà của người Tày-Nùng có những đặc trưng riêng không giống các cư dân khác trong cùng nhóm ngôn ngữ Tày-Thái. Bộ khung nhà Tày-Nùng cũng được hình thành trên cơ sở các kiểu vì kèo. Có nhiều kiểu vì kèo khác nhau, nhưng chủ yếu là bắt nguồn từ kiểu vì kèo ba cột. Để mở rộng lòng nhà, người ta thêm một hoặc hai cột vào hai bếp vì kèo ba cột để trở thành vì kèo năm hoặc bảy cột. Song không có vì kèo nào vượt quá được bảy cột. Bộ khung nhà dễ nhận ra hai đặc trưng:
- Ô vì kèo, đứng trên lưng xà, kẹp giữa hai cột có một trụ ngắn hình "quả bí" hay quả dưa (nghé qua), đầu đấu vào thân kèo.
- Để liên kết các cột trong một vì kèo hay giữa các vì kèo với nhau, người ta không dùng các đoạn xà ngắn mà dùng một thanh gỗ dài xuyên qua thân các cột.
Mặt bằng sinh hoạt của nhà Tày-Nùng trên cơ bản giống nhau, mặt sàn chia làm hai phần, một dành cho sinh hoạt của nữ, một dành cho sinh hoạt của nam. Các phòng và nơi ngủ của mọi thành viên trong nhà đều giáp vách tiền và hậu.
Nói đến nhà Tày-Nùng có lẽ không nên bỏ qua một loại hình nhà khá đặc biệt, đó là "nhà phòng thủ". Thường là có sự kết hợp giữa nhà đất và nhà sàn, đúng hơn là nhà tầng. Tường xây gạch hoặc trình rất dày từ 40 đến 60 cm để chống đạn. Trên tường còn được đục nhiều lỗ châu mai. Có nhà còn có lô cốt chiến đấu. Loại nhà này chỉ có ở Lạng Sơn gần biên giới phía bắc để phòng chống trộm cướp.
Về quan hệ gia đình, tín ngưỡng và chữ viết
Trong gia đình, quan hệ giữa bố chồng, anh chồng với nàng dâu có sự cách biệt nghiêm ngặt. Theo phong tục người Nùng, dù là con anh, con em, con chị... ai nhiều tuổi hơn được gọi là anh, là chị. Người Nùng có thói quen ít khi gọi thăng tên người ông, người bố mà thường gọi theo tên của đứa cháu đầu, con đầu của họ. Khi đặt tên con phải tuân theo hệ thống tên đệm của dòng họ.
Việc dựng vợ, gả chồng do bố mẹ quyết định trên cơ sở môn đăng hộ đối giữa hai gia đình, sự ưng thuận của con cái và lá số của đôi nam nữ...
Sau ngày cưới, cô dâu chưa ở hẳn bên nhà chồng mà chỉ có mặt khi nhà chồng có công việc bận rộn, lễ, tết... và phải có người sang đón nàng dâu về nhà chồng giúp việc. Tình trạng này kéo dài cho đến lúc sắp có con. Người phụ nữ khi đã đi lấy chồng xem như hoàn toàn phụ thuộc nhà chồng. Nếu ly dị, đi lấy người khác thì phải trả lại tiền cưới, để lại của cải hồi môn và con cái...
Trong tín ngưỡng, người dân tộc Nùng thờ cúng tổ tiên trong nhà. Bàn thờ tổ tiên có bài vị, lư hương và được đặt vào nơi trang trọng nhất. Ngoài ra, mỗi nhà còn thờ bà mụ Mẹ Hoa (Thần bảo hộ trẻ nhỏ), mẹ cửa (Thần trông nhà). Vào những ngày đầu tháng, ngày rằm,họ thường đốt hương. Ngày lễ, tết có cúng chè, rượu và các món ăn. Người Nùng cúng ma sàn (phi hang chàn) và các cô hồn đầu ngõ vào dịp Tết Nguyên đán. Những gia đình cùng một dòng họ thì cùng chung một miếu thờ thổ công, thổ địa. Các thầy tào, thầy mo theo ý tưởng từ xưa họ có khả năng tiếp xúc với các loại ma thần nên được gọi là cân thả hụng (người mắt sáng). Họ hành nghề cúng bái, cầu sự tốt lành cho người dân. Vì thế họ được mọi người kính nể.
Về chữ viết, người dân tộc Nùng dùng chữ Hán hay chữ Nôm Nùng được phát triển khoảng thế kỷ 17 để ghi chép thơ ca và truyện cổ dân gian. Trước đây, hầu hết người dân tộc Nùng đều mù chữ, chỉ có những người giàu có mới được đi học, nhưng là học chữ Hán hoặc tiếng Pháp để làm thầy cúng, thông ngôn. Hiện nay, phần lớn người Nùng đều không biết viết chữ của dân tộc mình. Mọi người đều được học chữ quốc ngữ của người Việt và tham gia phát triển kinh tế-xã hội và sự nghiệp văn hoá giáo dục và y tế của chính mình.
Người dân tộc Nùng trong lịch sử
- Nùng Trí Cao tức Nông Trí Cao, thủ lĩnh người Nùng ở châu Quảng Uyên xưa của thời Lý, nay là tỉnh Cao Bằng; đây là người lập ra nước Nam Thiên Quốc sau đổi là Nam Việt rồi bị nhà Tống diệt.
Lo sợ bị nhà Tống trả thù, nhiều người Nùng chạy sang Ðại Việt lánh nạn và định cư luôn tại miền thượng du các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Người Kinh gọi các nhóm này là người Thổ (người địa phương), trong khi họ tự nhận là người Thái. Với thời gian, các nhóm này đổi tên thành người Thày (đọc trại từ chữ Thái) rồi Tày để phân biệt với các nhóm người Thái đã có mặt từ trước và cũng để phân biệt với người Nùng, cùng hệ ngôn ngữ, còn sinh trú ở Quảng Tây và Quảng Ðông. Từ thế kỷ 13, các nhóm Nùng không chịu nổi chính sách phân biệt đối xử của nhà Nguyên (Mông Cổ), sau đó là nhà Minh (Hán) và nhà Thanh (Mãn Châu); sau đó đã từng đợt di cư vào Việt Nam, hội nhập với các nhóm Tày và Thái cùng hệ ngôn ngữ đã có mặt từ trước, họ vẫn giữ tên gọi riêng là Nùng.
Trong thực tế, các nhóm Tày, Nùng và Thái tại Việt Nam chỉ khác nhau chút ít về cách ăn mặc và cách xây dựng nhà cửa, về văn hóa thì hoàn toàn giống nhau. Cộng đồng người Tày, Nùng hay Thái được các triều đình Việt Nam dành cho quy chế tự trị để tranh thủ sự ủng hộ, chính sách này có tên "kềm cương phụ đạo", nghĩa là tranh thủ cảm tình các vị thủ lãnh vì những người này có uy tín lớn trong cộng đồng của họ.
- Ả Nùng, bà là người vợ của Nùng Tồn Phúc, thủ lãnh châu Quảng Uyên, và là mẹ đẻ của Nùng Trí Cao. Ả Nùng là người phụ nữ có tiếng nói quyết định trong toàn bộ sự nghiệp chính trị của Nùng Trí Cao.
- Nùng Tôn Đản, tướng nhà Lý dưới quyền Lý Thường Kiệt, chỉ huy cánh quân bộ trong chiến dịch đánh sang Ung Châu.
- Năm 1833, Nông Văn Vân, một tù trưởng Tày giữ chức tri châu Bảo Lạc, ngày nay thuộc tỉnh Hà Giang tự xưng Tiết chế thượng tướng quân, đã cùng các tù trưởng Mường và một số làng Kinh ở miền trung du do Nguyễn Quang Khả (tri châu Ðại Man) lãnh đạo, chiếm một vùng đất rộng lớn ở Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn lập căn cứ chống lại nhà Nguyễn. Nông Văn Vân là anh vợ của Lê Văn Khôi ở Gia Ðịnh bị vua Minh Mạng bắt về Huế xử trảm về tội làm phản, chính vì lo sợ bị trả thù ông mới nổi lên chống lại. Quan quân nhà Nguyễn phải vất vả lắm mới đánh bại Nông Văn Vân năm 1835, từ đó quan hệ giữa triều đình Huế và người thiểu số trở nên lạnh nhạt. Các nhóm Thái-Tày đã không những không hưởng ứng các đợt tấn công quân Thanh tại vùng biên giới mà còn hợp tác với quân Cờ Đen, Cờ Trắng và Cờ Vàng đánh phá các làng xã người Kinh.
- Thượng tướng Chu Văn Tấn
- Đại tá Voòng A Sáng chỉ huy tiểu đoàn Nùng, đóng ở Quảng Ninh. Sau khi vào Nam tháng 7 năm 1954, quân số tiểu đoàn được mộ thêm để thành lập Sư đoàn 5 đóng ở Sông Mao, Bắc Bình Thuận. Những lính Nùng này cực kỳ thiện chiến và hung dữ, ngang ngạnh. Ngoài chỉ huy trực tiếp, họ không hề thần phục bất cứ ai, kể cả tổng thống. Khi nổi nóng, họ có thể cắy tai luôn cả một vị tướng nếu ông ta là người khiêu khích. Chính điều này làm Ngô Đình Diệm sợ mặc dù ông cũng rất cần họ, nên đã xé lẻ Sư đoàn 5 ra. Bất mãn với hành động này, Voòng A Sáng bỏ ra nước ngoài, mặc cho đám lính Nùng di cư bị Diệm xé thành nhiều mảnh. Một bộ phận được điều về Liên đoàn Biệt động quân Quân khu Thủ đô, phiên thành 3 đại đội.
- Kim Đồng, một thiếu niên được phong danh hiệu Anh hùng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.