Chủ tịch Hồ Chí Minh khi còn sinh thời đã căn dặn luôn luôn xem việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam. Người nhấn mạnh: “Nước độc lập và dân vẫn còn nghèo khổ thì chẳng có nghĩa lý gì. Vì vậy phải hết sức chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa các dân tộc, làm cho các dân tộc thiểu số khắc phục dần sự chênh lệch, tiến kịp trình độ chung, thực hiện đoàn kết, bình đẳng dân tộc”. Với sự căn dặn của Người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có một số quan điểm về vấn đề này từ rất sớm.
Trước đây, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, vấn đề dân tộc là một bộ phận của vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản; giải quyết vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng xã hội chủ nghĩa và trên cơ sở của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề dân tộc là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, nó đang là vấn đề thực tiễn nóng bỏng, đòi hỏi phải giải quyết một cách đúng đắn và thận trọng theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Các dân tộc thiểu số thường cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng kể cả về kinh tế và an ninh quốc phòng. Vì vậy, cần có những chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội tại đây, trong đó có vấn đề chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất cho đồng bào các dân tộc. Lênin cũng đã nhắc nhở những người cộng sản không được xem nhẹ vấn đề dân tộc, không được sa vào thái độ “hư vô dân tộc”.
Trong Cương lĩnh chính trị xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ VII thông qua đã ghi rõ: “Thực hiện bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam... Các chính sách kinh tế, xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”. Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính toàn diện, tổng hợp, bao hàm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó trọng tâm là đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi dân tộc. Chính sách đó mang tính cách mạng và tiến bộ xã hội. Nó tác động thông qua hệ thống các chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế...
Định hướng một trong những nội dung nhiệm vụ lớn trong thực hiện chính sách dân tộc của đảng ta là: “Có chính sách giúp đỡ các dân tộc thiểu số về đời sống, đặc biệt quan tâm đến đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng, khắc phục tình trạng suy giảm dân số của một số dân tộc ít người”. Các dân tộc thiểu số tuy dân số ít nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, quốc phòng, anh ninh và giao lưu quốc tế. Các vùng sát biên giới, không ít dân tộc có quan hệ đồng tộc với các dân tộc ở nước láng giềng nên khách quan có nhu cầu thăm thân và nẩy sinh nhiều mối quan hệ dân tộc hết sức đa dạng, phong phú và phức tạp. Đồng bào các dân tộc thiểu số có truyền thống cách mạng, yêu nước, một lòng một dạ tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng do đảng ta lãnh đạo. Vì sinh sống lâu đời, có nhiều mối quan hệ và hiểu biết sâu sắc miền núi, vùng cao nên đồng bào các dân tộc ở đây đóng vai trò chính trong quá trình phát triển văn hóa, xã hội ở vùng cao, miền núi và bảo vệ biên cương của tổ quốc.
|
Người nhấn mạnh: “Nước độc lập và dân vẫn còn nghèo khổ thì chẳng có nghĩa lý gì. Vì vậy phải hết sức chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa các dân tộc, làm cho các dân tộc thiểu số khắc phục dần sự chênh lệch, tiến kịp trình độ chung, thực hiện đoàn kết, bình đẳng dân tộc”. |
Lênin cũng cho rằng để đạt tới phồn vinh và xích lại gần nhau giữa các dân tộc, yếu tố quyết định là kinh tế. Vì vậy chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội của đảng ta đã đề cập đến việc thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Muốn thực hiện được vấn đề này thì nó liên quan đến vấn đề chăm sóc sức khỏe cho đồng bào để tăng khả năng lao động sản xuất và năng suất lao động.
Thời gian qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã triển khai thực hiện các chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiểu số theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các quan điểm cơ bản của đảng từ rất sớm. Nhìn lại cả một quá trình, sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế... ở các vùng cao, miền núi, biên giới, vùng căn cứ địa cách mạng; nơi có nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống đã có những chuyển biến tích cực. Bây giờ đi đến các vùng này, mọi người sẽ nhìn thấy nhiều đổi thay rõ rệt. Các công trình kiến trúc, công trình phục vụ xã hội, nhà máy, công ty, xí nghiệp, nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ... đã dần dần mọc lên với khung cảnh tiền đề của sự phát triển đô thị. Đời sống kinh tế, văn hóa, vật chất, tinh thần của người dân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số cũng đã được nâng lên và đang từng bước tiến kịp với miền xuôi khi điều kiện giao thông đi lại khá thuận lợi; sự tiếp cận của vùng cao, miền núi và vùng đồng bằng, thành phố rất gần gũi, rút ngắn dần được khoảng cách chênh lệch.
Tại nhiều địa phương, cấp ủy đảng và chính quyền cơ sở ở vùng cao, miền núi, biên giới, căn cứ địa cách mạng; nơi có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống đã có những sự quan tâm đặc biệt trong việc phát triển kinh tế xã hội theo tính chất đặc thù của từng vùng miền. Cộng đồng các dân tộc anh em đã đoàn kết một lòng, cùng chung tay, tiếp sức để xây dựng quê hương, đất nước theo mục tiêu lãnh đạo của đảng, của chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Miền núi sẽ tiến kịp miền xuôi, vùng cao sẽ được đô thị hóa để trở thành các thành phố; đời sống kinh tế, văn hóa... của cộng đồng người dân sẽ đi lên trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa với tinh thần đại đoàn kết dân tộc.