Nhằm giảm thiểu gánh nặng và tác hại bệnh sốt rét cho các dân tộc thiểu số có đời sống kinh tế khó khăn sống trong vùng sốt rét lưu hành ở các nước Tiểu vùng sông Mê Kông, từ đó làm giảm tử vong ở trẻ em và phụ nữ có thai với các mục tiêu:
(1) xây dựng các Viện sốt rét có khả năng phát triển được chiến lược phòng chống sốt rét có tính khả thi, hiệu quả và dễ chấp nhận cho đồng bào dân tộc thiểu số;
(2) phát huy nỗ lực phòng chống sốt rét cho những cộng đồng dân cư này thông qua Chương trình quốc gia phòng chống sốt rét;
(3) Đẩy mạnh hợp tác phòng chống sốt rét cho các nước Tiểu vùng sông Mê Kông bao gồm Trung Quốc, Myanmar, Thailand, Lào, Cambodia và Việt Nam. Từ năm 2003, Ngân hàng châu Á (ADB) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) có hỗ trợ các nước thuộc Tiểu vùng sông Mê Kông thực hiện thí điểm về mô hình phòng chống sốt rét bằng truyền thông giáo dục (IEC) cho đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện ở mỗi nước.
Dự án được chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn I (2003-2005) thiết kế các vật liệu truyền thông phù hợp với đặc điểm người dân tộc thiểu số.
Giai đoạn II (2006-2007) ứng dụng biện pháp truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét để người dân tộc thiểu số có thể tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét lưu hành.
Với mục tiêu trên, Dự án phòng chống sốt rét cho người dân tộc thiểu số tại Việt Nam được triển khai thí điểm tại hai xã Khánh Trung và Khánh Nam, thuộc huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa với đối tượng đích là đồng bào dân tộc Raglei. Hiện nay, Dự án đang triển khai năm thứ hai của giai đoạn II và dự kiến kết thúc vào cuối năm 2007. Để chia sẻ kinh nghiệm phòng chống sốt rét cho dân tộc thiểu số, ngày 5/4/2007 Dự án Việt Nam có tổ chức một cuộc Hội thảo với thành phần trực tiếp thực hiện Dự án bao gồm các thành viên Ban Quản lý Dự án Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, Phó Chủ tịch UBND huyện Khánh Vĩnh, đại diện Trung tâm Y tế huyện, Phòng Y tế huyện, cán bộ Trạm y tế xã và toàn bộ y tế thôn bản thuộc hai xã thực hiện Dự án. Thành phần tham dự còn có các chuyên gia của Dự án là Dr. Pricha Petlueng-Điều phối viên Dự án của tổ chức Y tế thế giới tại Lao PDR,Dr. Charlas Delacollete-Chuyên gia Dự án ADB/WHO, Dr. Trần Công Đại-Chuyên gia WHO tại Việt Nam và 7 tỉnh trọng điểm sốt rét tại miền Trung-Tây Nguyên là Khánh Hòa, Bình Định, Thừa thiên Huế, Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk và Đăk Nông.
Trong một ngày Hội thảo Dự án đã nghe báo cáo kết quả kinh nghiệm bước đầu Dự án “Nâng cao hiệu quả các biện pháp phòng chống sốt rét cho người dân tộc Raglei tại hai xã Khánh Trung và Khánh Nam” do TS. Trương Văn Có-Điều phối viên Dự án Viện trình bày, báo cáo về kết trong quá trình thực hiện tại hai xã Dự án do đại diện Trạm Y tế xã Khánh Trung và Khánh Nam trình bày; báo cáo tham luận của Phó Chủ tịch UBND huyện Khánh Vĩnh, Trưởng Phòng Y tế huyện Khánh Vĩnh và Phó Giám đốc Trung tâm y tế huyện Khánh Vĩnh; báo cáo kinh nghiệm phòng chống sốt rét cho đồng bào dân tộc thiểu số của các tỉnh trọng điểm ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên. Hội nghị cũng dành nhiều thời gian thảo luận về các giải pháp cũng như các khó khăn tồn tại trong công tác bảo vệ các nhóm dân di biến động và kinh nghiệm phòng chống sốt rét cho đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa là các vùng có mức độ sốt rét lưu hành nặng hiện nay.
 |
Các Đại biểu tham gia Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm phòng chống sốt rét cho dân tộc thiểu số tại một số tỉnh trọng điểm sốt rét khu vực miền Trung-Tây Nguyên |
Các báo cáo đều nêu bật được hiệu quả của Dự án không những chỉ thay đổi được nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số Raglei góp phần làm giảm thấp chỉ số mắc sốt rét cho người dân tại địa phương mà còn đem lại nhiều kinh nghiệm phòng chống sốt rét và quản lý ca bệnh cho đội ngũ y tế cơ sở. Tuy nhiên, những vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống cũng đồng thời là các vùng sốt rét lưu hành nặng, tỷ lệ hộ đói nghèo cao, dân trí thấp và ý thức tự bảo vệ sức khỏe cá nhân còn hạn chế; đặc biệt là giao thông đi lại không thuận tiện, khó khăn tiếp cận các dịch vụ y tế công nên dễ phát sinh bệnh dịch. Kinh phí dành cho hoạt động truyền thông tạiVấn đề lớn nhất hiện nay là chưa có biện pháp bảo vệ khả thi cho các nhóm dân di biến động như dân ngủ rẫy dài ngày, dân di cư tự do, dân từ các tỉnh đồng bằng vào rừng làm ăn theo mùa vụ và dân giao lưu qua các vùng biên giới Việt Nam-Lào, Việt Nam-Cambodia do đó biện pháp truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét là hết sức quan trọng để mỗi người dân có ý thức tự bảo vệ khi phải thường xuyên tiếp xúc với các vùng nhiễm bệnh cao. Các ý kiến thảo luận cũng cho thấy, với các kênh truyền thông hiện nay, nhận thức của người dân về nguyên nhân, tác hại bệnh sốt rét đã được cải thiện đáng kể; nhưng chưa chuyển được từ nhận thức sang hành vi tự bảo vệnên cần phải lựa chọn hình thức truyền thông phù hợp với từng vùng và từng dân tộc để tạo thành thói quen cho họ. Bên cạnh đó, những người làm công tác truyền thông cho đồng bào dân tộc thiểu số không ai khác hơn là đội ngũ cán bộ y tế thôn bản vì họ có điều kiện thường xuyên tiếp cận người dân, song định mức của y tế thôn bản lại quá thấp (chỉ hơn 100.000 đ/tháng) nên để duy trì được hoạt động này của y tế thôn bản cần phải có chế độ đãi ngộ thích hợp để họ có thể yên tâm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
 |
Dr. Pricha Petlueng-Điều phối viên Dự án của tổ chức Y tế thế giới tại Lao PDR, Dr. Charlas Delacollete-Chuyên gia Dự án ADB/WHO, Dr. Trần Công Đại -Chuyên gia WHO tại Việt Nam |
Từ những kết quả bước đầu, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn sẽ đúc rút những kinh nghiệm đạt được của Dự án cùng với những ý kiến Hội thảo để đề xuất biện pháp phòng chống sốt rét và truyền thông giáo dục phù hợp với dân tộc thiểu số sống trong vùng sốt rét lưu hành ở khu vực. Viện cũng đề nghị các chuyên gia ADB/WHO tiếp tục hỗ trợ kinh phí hoạt động sau khi Dự án kết thúc và mở rộng Dự án giai đoạn III (2008-2010) sang các đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số có tập quán ngủ rẫy, di cư tự do và giao lưu biên giới.
Sau khi kết thúc Hội thảo Đoàn chuyên gia của ADB/WHO đã làm việc với Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn trong phạm vi hoạt động Dự án và tiến hành giám sát thực địa tại hai xã Dự án là Khánh Trung và Khánh Nam (huyện Khánh Vĩnh) theo kế hoạch trước khi lên đường về nước.