Tafenoquine Succinate – Hợp chất thuốc triển vong trong các nghiên cứu lâm sàng 2011
Sốt rét là một vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng tại các quốc gia thứ 3 và quốc gia đang phát triển. ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax lbij quy kết là chịu trách nhiệm phần lớn số ca sốt rét trên toàn cầu. Điều trị tập trung vào cả hóa dự phòng (chemoprevention) và cả điều trị nhiễm trùng cấp, nhưng các thuốc hiện đang sử dụng đang bị “đe dọa” bởi các loài ký sinh trùng kháng thuốc tại nhiều nơi trên thế giới. Tafenoquine là một thuốc mới thuộc nhóm 8-aminoquinoline với chỉ số điều trị cải thiện và trong cả hồ sơ an toàn về thuốc khi so sánh vai trò của chúng với Primaquine.
Trong các nghiên cứu dược động học, Tafenoquine đã cho thấy có tiềm năng cao hơn gấp 10 lần so với thuốc Primaquine và có thời gian bán hủy thuốc kéo dài hơn, cho phép dùng liều sẽ ít hơn trong hóa dự phòng (chemoprophylactic regimens). Hiệu lực lâm sàng của thuốc đã cho thấy trong một số nghiên cứu, cả trong hóa dự phòng đối với phòng bệnh cho nhiễm P. falciparum và như là một liệu trình điều trị cấp đối với thể ẩn trong gan của P. vivax. Tafenoquine có tiềm năng trở nên dùng rộng rãi trong điều trị lẫn phòng bệnh và có thể thay thế một số thuốc hiện đang dùng như là thuốc chống kháng do chủng Plasmodium spp đang gia tăng.
Tafenoquine (còn gọi là WR 238605 or SB-252263) is an 8-aminoquinoline, công thức hóa học là thuốc N-[2,6-dimethoxy-4-methyl-5-[3-(trifluoromethyl) phenoxy]quinolin-8-yl] pentane-1,4-diamine sản xuất bởi công ty dược phẩm hàng đầu thế giới GlaxoSmithKline hiện vẫn đang tiếp tục đánh giá điều tra về các hiệu lực điều trị cho sốt rét cũng như vai trò của nó trong dự phòng các cơn sốt rét sau đó. Lợi điểm chính của Tafenoquine là thời gian bán hủy kéo dài và do đó, bệnh nhân không cần phải uống nhiều lần và thường xuyên như primaquine. Cũng như primaquine, Tafenoquine gây nên tình trạng tan huyết trên các cá nhân thiếu men G6PDH.
Tafenoquine: Một loại thuốc nhóm 8-aminoquinolein có tính năng và triển vọng
Tác giả Crockett M, Kain KC cùng cộng sự đang làm việc tại bệnh viện Nhivà khoa truyền nhiễm, 555 University Avenue, Toronto, Canada cho thấy sốt rét vẫn là một vấn đề y tế và là bệnh xã hội nghiêm trọng lên gánh nặng bệnh tật và tử vong toàn cầu. Vì tình trạng kháng thuốc đang gia tăng như nấc thang, nhiều thuốc mới và an toàn là cần thiết để ngăn ngừa và điều trị sốt rét. Tafenoquine là một thuốc nhóm 8-aminoquinoline vừa phát triển và thử nghiệm trong 10 năm trở lại đây. Thời gian bán hủy kéo dài khoảng chừng 14 ngày và nhìn chung thuốc dùng an toàn và dung nạp thuốc tốt, mặc dù nó không thể sử dụng trên phụ nữ mang thai và những đối tượng thiếu men G6PDH. Trong những nghiên cứu thiết kế tốt và chặt chẽ, Tafenoquine có hiệu lực cao trên cả điều trị tận gốc sốt rét tái phát và dự phòng trong diệt giao bào của cả Plasmodium vivax và P. falciparum với hiệu lực bảo vệ ≥ 90%. Thuốc biểu hiện về mặt hiệu lực và an toàn trong dữ liệu hồ sơ thử nghiệm, đây là thuốc tiềm năng thay thế cho loại thuốc primaquine trong tương lai để điều trị tận gốc.
Tafenoquine là một dự án lớn nhắm vào đích tác dụng điều trị tận gốc chữa khỏi nhiễm trùng P. vivax. Đây là thuốc 8-aminoquinoline, cùng họ với primaquine (hiện là thuốc chuẩn cho điều trị sốt rét P. vivax tái phát), tỏ ra tác động trên thể ngủ ở gan của P. vivax trên thử nghiệm in vitro và trên cả bệnh nhân. Primaquine đòi hỏi phải dùng đến liệu trình 14 ngày và có liên đới đến các bệnh nhân có vấn đề khiếm khuyết men G6PDH. Tuy nhiên, Tafenoquine có lợi điểm tiềm năng liệu trình điều trị ngắn hơn Primaquine, do đó sẽ tăng đạt sự hài lòng của bênh nhân và chấp thuận của cộng đồng.
Tafenoquine trong điều trị sốt rét do Plasmodium vivax tái phát
Nhóm tác giả gồm Scott kitchener, Peter Nasveldvà Michael D. Edstein đang công tác tại Trung tâm sức khỏe Quân đội, Đại học Queensland, Herston, Queensland, Australia (tên cũ là Viện sốt rét Quân đội Úc- Australian Army Malaria Institute); Australian Army Malaria Institute, Gallipoli Barracks, Enoggera, Queensland, Australia Tafenoquine được sử dụng để điều trị nhiễm trùng Plasmodium vivax mà trước đó bệnh nhân thất bại với liệu trình [chloroquine + primaquine]. Chloroquine được cho và theo sau là liều tải Tafenoquine (200 mg base/ngày x 3 ngày) và 200mg một tuần trong 8 tuần. Một trong số 27 bệnh nhân tái phát sau 6 tháng quan sát. Liệu trình chuẩn của chloroquine cho với 8 tuần Tafenoquine có thể hiệu quả hơn chloroquine + primaquine (22.5 mg/ngày trong 14 ngày) trong việc ngăn ngừa tái phát thêm của P. vivax. Các nghiên cứu quy mô lớn hơn đòi hỏi phải chuẩn hóa liều phối hợp, nhưng thử nghiệm này cho thấy một mở rộng sử dụng Tafenoquine có thể yêu cầu để ngăn ngừa tái phát các chủng dung nạp với primaquine của P. vivax (primaquine-tolerant strains). Nghiên cứu đầu tiên này được tiến hành bởi tổ chức MMV và tập đoàn dược GSK trong một nghiên cứu về độ an toàn liều tăng dần trên các bệnh nhân có G6PDH heterozygous, với một cái nhìn xác định đến liều an toàn tối đa. Nghiên cứu này khỏi đầu vào năm 2009 và sẽ tiếp tục tuyển chọn thêm bệnh nhân vào năm năm 2011. Trong một cuộc họp chuyên gia năm 2008, liên quan đến các nhà đại diện của WHO và nhóm các nhà lãnh đạo có ý kiến về lâm sàng liên quan đến P. vivax, sự khuyến cáo được thiết lập phối hợp liều uyển chuyển (hơn là fixed-dose combination) để cho phép thay đổi một cách dễ dàng trong cách lựa chọn thuốc đi cùng. CQ và ACTs đã được đề nghị như những thuốc đi cùng tiềm năng (partners) trong thời gian đến.
Trong chuẩn bị nghiên cứu Phase II/III, một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng tương tác thuốc với CQ đã thực hiện thành công vào năm 2010. Hiệu lực và tính an toàn của điều trị Tafenoquine trong điều trị tận gốc sốt rét do P. vivax sẽ được nghiên cứu liền mạch với thiết kế Phase II/III sử dụng phối hợp rời (loose combination) của thuốc Tafenoquine và CQ vào năm 2011. Thiết kế nghiên cứu có thay đổi cải tiến này sẽ thiết lập chương trình phát triển tăng lên. Một liệu trình ngắn hơn cũng đã được mô tả như một ưu thế. Liều Tafenoquine từ lâu chưa xác định, nhưng để điều trị sốt rét Plasmodium vivax, một liều 800mg qua 3 ngày đã được dùng.
Tafenoquine đối với dự phòng sốt rét (Malaria prophylaxis)
Tafenoquine (WR238605) là một loại thuốc tác động kéo dài thuộc nhóm 8 -aminoquinolone có tiềm năng sử dụng dự phòng tại các vùng địa lý có Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax kháng CQ. Tác giả Shanks GD và cộng sự cho biết trong một bài báo đăng “A new primaquine analogue, tafenoquine (WR238605), for prophylaxis against Plasmodium falciparum malaria” trên tạp chí Clin Infect Dis. 2001;33:1968-1974.
Tafenoquine được thử nghiệm trong nghiên cứu mù đôi, đối chứng giả dược và thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên trong các mùa truyền bệnh sốt rét tại các vùng sốt rét lan truyền cao ở phía Tây Kenya. Thử nghiệm lâm sàng so sánh có 4 arms. Để làm rõ những trường hợp còn tồn tại trước ký sinh trùng, tổng số 249 người tình nguyện đầu tiên cho nhận liệu trình điều trị chữa khỏi bằng thuốc Halofantrine. Các đối tượng rồi nhận 1 trong 4 liệu trình thuốc: placebo; 3 ngày 400 mg base tafenoquine/ ngày theo sau là placebo hàng tuần; 3 ngày 200 mg Tafenoquine/ ngày theo sau là 200mg hàng tuần Tafenoquine và 3 ngày 400mg Tafenoquine theo sau đó là 400mg hàng tuần Tafenoquine. Dự phòng tiếp tục trong 13 tuần. Các đối tượng tình nguyện nhận 400 mg chỉ trong 3 ngày có hiệu lực bảo vệ đến 68% (CI = 95%, 53-79%), nhóm dùng 200 mg trong 3 ngày và theo sau 200 mg hằng tuần có hiệu lực bảo vệ 86% (CI=95%; 73-93%) và nhóm dùng 400 mg trong 3 ngày theo sau bởi 400 mg mỗi tuần có hiệu lực bảo vệ đến 89% (CI = 95%, 77-95%).
Tafenoquine (WR238065) là một thuốc thuộc nhóm 8-aminoquinolone có tác dụng kéo dài và thời gian bán hủy dài đến 2 tuần. Thời gian bán hủy dài làm tăng khả năng cho những người đi du lịch đến các vùng sốt rét lưu hành có thể được bảo vệ nhờ vào sử dụng liệu pháp 3 ngày uống trước khi đi du lịch. Những người thiếu G6PD có thể bị loại và nghiên cứu này có hai trường hợp tan máu xảy ra do thiếu men G6PDH. Ngược lại, thuốc dung nạp tốt ngoại trừ có ban đỏ ở da nhẹ và tình trạng MetHb mức độ thấp, điều này đã được đoán trước như là nhóm thuốc của primaquine.
Trước khi kết luận thêm đưa ra, các nghiên cứu trên những người không có miễn dịch phải được tiến hành, cũng như trên những người tình nguyện có bán miễn dịch (semi-immune volunteers) đang sống trong vùng sốt rét của Kenya. Ngoài ra, thời gian bán hủy dài của Tafenoquine gợi ý một số ký sinh trùng sẽ bị phơi nhiễm với một nồng độ thấp của thuốc trong suốt quá trình đào thải, điều này có thể khích lệ cho việc lựa chọn các chủng kháng thuốc nhanh nếu thuốc có thể sử dụng trong các vùng lưu hành thường xuyên. Điều tất nhiên, các đối tượng đi du lịch ngắn ngày có thể rời khỏi vùng lưu hành với liệu pháp thuốc dùng sẽ là nhóm đích để dùng hợp chất này thành công mà không e ngại đến tình trạng kháng thuốc.
Hoạt tính trên In vitro của Tafenoquine chống lại giai đoạn thể vô tính trong máu của các phân lập Plasmodium falciparumtừ Gabon, Senegal, Djibouti
Các thuốc sốt rét khi sử dụng đơn trị liệu thường mất nhanh hiệu quả. Một loại thuốc mới đầy hứa hẹn là thuộc 8-aminoquinoline Tafenoquine (SB-252263 [cũ WR-238605]), một loại đồng phân của primaquine tổng hợp do U.S. Army và hãng GlaxoSmithKline cùng phát triển loại thuốc này, đã cho thấy hiệu quả không chỉ chống lại các thể trong gan, giao bào và thoi trùng của Plasmodium falciparum, mà còn chống lại các giai đoạn trong máu của ký sinh trùng. Tafenoquine cho thấy có bảo vệ chống lại P. falciparum tại Gabon, Ghana và Kenya. Tafenoquine đã được báo cáo là dung nạp thuốc tốt với chỉ một vài tác dụng phụ nhẹ đường tiêu hóa thoáng qua.
Các phân lập thu thập được từ năm 1999 ở các bệnh nhân sốt rét đến từ Libreville (Gabon, Central Africa), Dielmo và Ndiop (Senegal, West Africa) và Djibouti (East Africa). Bộ thử đánh giá độ nhạy của ký sinh trùng với thuốc dạng isotopic, microdrug susceptibility test được áp dụng trong nghiên cứu này.
Nồng độ ức chế IC50 đối với Tafenoquine là khoảng 0.9-9.7 µM tại Djibouti, 0.6-33.1 µM tại Gabon và 0.5-20.7 µM tại Senegal. Nồng độ IC50 theo trung bình số học là 2.68 µM tại Djibouti, so sánh với 4.62 µM tại Gabon và 5.06 µM tại Senegal. Tafenoquine tìm thấy có hoạt tính chống lại các thể phân liệt trong máu đáng kể trên P. falciparum tại những vùng có quần thể ký sinh trùng đa kháng thuốc cao. Không có sự khác biệt giữa nồng độ Tafenoquine IC50 giữa Dielmo-Ndiop và Libreville, ngay cả khi nồng độ giảm nhạy với chloroquine, mefloquine, cycloguanil và pyrimethamine là khác nhau. Ngược lại, Tafenoquine có hoạt tính cao hơn có ý nghĩa tại Djibouti hơn so với tại Gabon hoặc Senegal (p = 0.016). Kết quả cho thấy các thử nghiệm in vitro test so sánh là biểu hiện ưu thế về hiệu quả.
Hiệu lực điều trị tận gốc của liệu pháp phối hợp Tafenoquine trong các khỉ Rhesus (Macaca mulatta) nhiễm Plasmodium cynomolgi
Các tác giả Dow GS, Gettayacamin M, Hansukjariya P, Imerbsin R, Komcharoen S, Sattabongkot J, Kyle D, Milhous W, Cozens S, Kenworthy D, Miller A, Veazey J, Ohrt C trên tạp chí Malaria Journal 2011, 10:212 (29 July 2011) cho biết liều hiệu lực lâm sàng thấp hơn 10 lần trong các nghiên cứu trước đây của Tafenoquine có thể hiệu quả chống lại các thể ngủ của P. vivax nếu thuốc này cho triển khai phối hợp với các thuốc diệt thể phân liệt vô tính trong máu (blood-schizonticidal drugs). Hơn nữa, Tafenoquine là một thuốc thuộc 8-aminoquinoline phát triển để điều trị tận gốc (loại trừ giai đoạn trong gan và máu) của Plasmodium vivax. Trong khi điều trị đơn trị liệu, hợp chất này tỏ ra ức chế chậm ký sinh trùng và thời gian cắt sốt chậm, độc tính trên những đối tượng thiếu men glucose-6-phosphate dehydrogenase (G6PDH) cũng là một mối quan tâm. Phối hợp với các thuốc sốt rét khác có lẽ là một hướng giảm bớt mối lo lắng này.
Vào năm 2005, hiệu lực điều trị tận gốc của phối hợp Tafenoquine (xem con đường chuyển hóa của Tafenoquine hình dưới) được tiến hành trên các con khỉ Rhesus gốc Ấn Độ nhiễm Plasmodium cynomolgi. Trong một nghiên cứu thuần tập đầu tiên, các nhóm gồm 2 khỉ được điều trị liệu trình 3 ngày Tafenoquine ở các liều đơn khác nhau và liều phối hợp với chloroquine 3 ngày để xác định liều chữa khỏi tối thiểu (minimum curative dose_MCD). Trong một nghiên cứu thuần tập thứ hai, hiệu lực chữa khỏi của liệu trình duy nhất Tafenoquine-mefloquine được so sánh với liệu trình 3 ngày gồm Tafenoquine ở liều MCD với chloroquine hoặc artemether-lumefantrine trong các nhóm 6 khỉ.
Trong một nghiên cứu thuần tập cuối cùng, hiệu lực MCD của Tafenoquine đơn thuần chống lại thể ngủ và trong phối hợp với chloroquine để xem xét trong nhóm 6 khi sau khi dùng quinine để loại bỏ các thể vô tính trước đó. Nồng độ Tafenoquine, Chloroquine và desethylchloroquine trong huyết tương được xác định bằng LC-MS để so sánh liều thuốc đã sử dụng trên lâm sàng ở người.
Toàn bộ MCD của Tafenoquine đòi hỏi liệu trình phối hợp để chữa khỏi là thấp hơn 10 lần (1.8 mg/kg vs 18 mg/kg) so với liều khi dùng đơn trị liệu. Liệu trình này (1.8 mg/kg) có hiệu lực tương đương liệu pháp đơn trị hoặc phối hợp với chloroquine sau khi cho trước quinine để loại khỏi các thể vô tính. Liều tương đương (1.8 mg/kg) chữa khỏi nhanh trong phối hợp với Artemether-lumefantrine. Tafenoquine cũng cho tỷ lệ chữa khỏi khi phối hợp với mefloquine. Liều MCD của Tafenoquine đơn trị liệu cho chữa khỏi (18 mg/kg) dường như tương đương sinh học với một liều 600-1200 mg ở người. Ở liều MCD trong phối hợp với các thuốc diệt thể vô tính trong máu (1.8 mg/kg), nồng độ trong huyết tương tối đa về thực chất là thấp hơn (20-84 vs 550-1,100 ng/ml) sau khi cho 1. 200 mg trong các nghiên cứu lâm sàng.
Liều lâm sàng thấp hơn đến 10 lần của Tafenoquine so với các nghiên cứu trước đây có thể có hiệu quả chống lại các thể ngủ P.vivax nếu thuốc được dùng phối hợp với các thuốc diệt thể vô tính trong máu.
Tafenoquine-Thuốc có khả năng khắc phục nhược điểm từ Primaquine
Một số nghiên cứu gần đây về thuốc mới điều trị sốt rét Tafenoquine có những ưu điểm và nhược điểm nhất định, thuốc được nghiên cứu rất nhiều trên thế giới, song ở Việt Nam, số liệu nghiên cứu chưa nhiều. Nhân đây, chúng tôi trình bày một số thông tin công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về thuốc sốt rét này và triển vọng thời gian đến.
Tafenoquine điều trị sốt rét tái phát do Plasmodium vivax (Tafenoquine for treatment of recurrent Plasmodium vivax malaria) là một đề tài nghiên cứu do nhóm tác giả Scott Kitchener, Peter Nasveld và Michael D.Edstein ở Viện Sốt rét quân đội Úc và Đại học Queensland cùng thực hiện.
Kết quả nghiên cứu cho thấy Tafenoquine được sử dụng để điều trị cho trường hợp sốt rét do Plasmodium vivax, những ca mà đã được điều trị bằng phác đồ chloroquine kinh điển kết hợp với primaquine bị thất bại. Tiếp đó, các ca này sau khi điều trị bằng liều chloroquine xòn, sẽ được điều trị bằng liều tải Tafenoquine (200mg base/ ngày trong 3 ngày) và 200mg / mỗi tuần trong 8 tuần. ! trong số 27 bệnh nhân được sử dụng phác đồ chloroquine đã tái (RELAPSE) sau đó 6 tháng. Số liệu này cho thấy [Phác đồ chloroquine chuẩn + liệu trình 8 tuần Tafenoquine]có hiệu quả cao hơn [Phác đồ chloroquine + primaquine liều 22.5mg/ ngày trong 14 ngày] trong việc ngăn ngừa tái phát do sốt rét P.vivax. Nghiên cứu tiếp theo cũng đề nghị quy mô lớn hơn để chuẩn hóa liều tối ưu trong phối hợp [Chloroquine + Tafenoquine]. Dẫu sao, kết quả nghiên cứu cũng đã cho thấy hiệu quả Tafenoquine rất lớn trong việc ngăn tái phát của các chủng tăng dung nạp thuốc primaquine (primaquine-tolerant strains) ở bệnh nhân dùng phác đồ cổ điển.
Nhóm nghiên cứu đứng đầu là tiến sĩ Michael D. Edsstein và cộng sự tại Trung tâm nghiên cứu dược lực học thuốc nhi khoa, đại học dược Queensland, Viện Sốt rét quân đội Úc (AMI) và Viên nghiên cứu khoa học y học của quân đội (AFRIMS) tại Bangkok, Thái Lan cùng thực hiện đề tài “Đánh giá nồng độ của Tafenoquine trong huyết tương-một thuốc sốt rét có tác dụng kéo dài trên những người lính được điều trị dự phòng hàng tháng”.
Phương pháp trong nghiên cứu này là họ đo nồng độ thuốc Tafenoquine trên những người lính Thái Lan được cho uống thuốc dự phòng hàng tháng để xác định xem liệu nồng độ thuốc Tafenoquine này có đủ để ngăn ngừa cho những người lính nàynhiễm sốt rét tại biên giới Thái Lan-Cambodia hay không ? Sau khi nhận liệu trình điều trị bằng thuốc Astesunate kết hợp Doxycycline, 104 người lính nam được nhận liều điều trị bằng Tafenoquine (400mg/ ngày trong 3 ngày) và sau đó 400mg mỗi 4 tuần/ 1 lần trong 5 tháng. Kết quả cho biết trị số trung bình về nồng độ hàng thángtrong huyết tương giữa hai đợt cho liên tục là 223 ± 41; 127 ± 29; 157 ± 51; 120 ± 24; 88 ± 20ng/mL. Chỉ có 1 người lính bị sốt rét trong suốt quá trình theo dõi và lúc anh ta được chẩn đoán sốt rét thì nồng độ Tafenoquine trong huyết tương là 40ng/mL, ngưỡng này thấp hơn 3 lần so với ngưỡng cho phép để khống chế.
Kết quả nghiên cứu cho thấy mối liên quan và hiệu quả của thuốc Tafenoquine trong việc chống lại và kiềm hãm quá trình phát bệnh sốt rét sau đó là rất tốt.
Tác dụng ngoại ý/ hay tác dụng không mong muốn
Trong một để tài có tên “Gender differences in gastrointestinal disturbances and plasma concentrations of tafenoquine in healthy volunteers after tafenoquine administration for post-exposure vivax malaria prophylaxis” của nhóm tác giả M.D. Edstein, P.E. Nasveld, D.A. Kocisko, S.J. Kitchener, M.L. Gatton, K.H. Rieckmann để đánh giá các triệu chứng trên dạ dày ruột của những người tình nguyện khỏe mạnh sau khi chỉ định dùng Tafenoquine. Đây là một nghiên cuuwusthuaanf tập mã mở (open-label sequential cohort study), họ so sánh các rối loạn tiêu hóa và nồng độ Tafenoquine trong huyết tương sau khi dùng thuốc liều đơn thuần duy nhất (400 mg mỗi ngày x 3 ngày; n = 76 nam và 11 nữ) và liều chia đối (200 mg x 2 lần/ mỗi ngày x 3 ngày; n = 73 nam và 13 nữ) liệu trình dùng Tafenoquine trên những người tình nguyện khỏe mạnh tại lực lượng quốc phòng Úc để dự phòng sau khi phơi nhiễm sốt rét.
Những người tình nguyện nam và nữ có so sánh về các đặc điểm dân số học (tuổi, cân nặng, chiều cao) trên các nhóm dùng liều duy nhất và dùng liều chia đôi. Các triệu chứng rối loạn tiêu hóa nói chung là nhẹ và tự giới hạn trên cả hai nhóm. Tần suất buồn nôn và đau bụng cao hơn 2 lần ở nữ so với nam trên cả hai nhóm điều trị. Báo cáo về các rối loạn tiêu hóa trên nhóm dùng liều duy nhất có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ, nhưng sự khác biệt giới tính này không tìm thấy trên nhóm dùng liều chia đôi. Trên những đối tượng tình nguyện có rối loạn tiêu hóa, nồng độ Tafenoquine trong huyết tương trung bình 12 giờ sau khi liều cuối cùng Tafenoquine khoảng 1.3 lần cao hơn ở nữ so với nam (means ± SD: 737 ± 118 ng/ml vs. 581 ± 113 ng/ml).
Thử nghiệm sơ bộ này cho thấy cần có các nghiên cứu thêm với số mẫu lớn hơn ở nữ để xác định có hay không cần giảm liều Tafenoquine trên nữ để giảm thiểu tối đa các rối loạn về tiêu hóa.
Đây là một nghiên cứu do nhóm tác giả Peter E. Nasveld, Michael D. Edstein, Mark Reid, Leonard Brennan, Ivor E. Harris, Scott J. Kitchener, Peter A. Leggat, Philip Pickford, Caron Kerr, Colin Ohrt, William Prescott đăng tải trên Antimicrobial Agents and Chemotherapy, February 2010, p. 792-798, Vol. 54, No. 2 . Đây là một nghiên cứu phase III đánh giá độ an toàn, tính dung nạp và hiệu quả của Tafenoquine trong dự phòng sốt rét.
GlaxoSmithKline nghiên cứu Tafenoquine trong điều trị sốt rét Plasmodium vivax
Sốt rét do Plasmodium vivax tìm thấy nhiều nơi và phân bố rộng rãi trên thế giới và thường gây ra sốt rét tái phát. Chủ yếu hay gặp ở châu Á, Mỹ Latinh và một số quốc gia châu Phi. Tafenoquine đã được phát triển để điều trị sốt rét do Plasmodium vivax. Hợp chất 8-aminoquinoline được tiến hành phase II trong thử nghiệm lâm sàng với GSK ở đó đã thử nghiệm trên những cá nhân để xác định liều lượng thích hợp và đánh giá hiệu lực. Tafenoquine có thời gian bán hủy dài nên số lần và số ngày dùng thuốc sẽ ít hơn so với nhóm primaquine.
Một liều 800mg cho qua một thời gian là 3 ngày được xem là liều thích hợp đến giờ này. Một trong những điểm mạnh của thuốc là liệu trình ngắn so với thuốc đang dùng. Thuốc cũng được thử nghiệm trong điều trị P. vivax khi mà chloroquine + primaquine thất bại. Các nghiên cứu chỉ ra sử dụng lâu dài Tafenoquine có thể đặt ra để ngăn ngừa tái phát các dòng dung nạp primaquine (primaquine-tolerant strains) của Plasmodium vivax.
Tài liệu tham khảo
1.Shanks GD, Oloo AJ, Aleman GM, et al. (2001). "A New Primaquine Analogue, Tafenoquine, for prophylaxis against Plasmodium falciparum malaria.". Clin Infect Dis 33 (12): 1968–74.
2.Lell B, Faucher JF, Missinou MA, et al. (2000). "Malaria chemoprophylaxis with tafenoquine: a randomised study.". Lancet 355 (9220): 2041–5.
3.Elmes NJ, Nasveld PE, Kitchener SJ, Kocisko DA, Edstein MD (2008). "The efficacy and tolerability of 3 different regimens of tafenoquine versus primaquine for post-exposure prophylaxis of Plasmodium vivax malaria in the Southwest Pacific". Transactions of the Royal Society of Tropical Medicine and Hygiene 102 (11): 1095–101.
4.Nasvelda P, Kitchener S. (2005). "Treatment of acute vivax malaria with tafenoquine.". Trans R Soc Trop Med Hyg 99 (1): 2–5
5.http://www.malariajournal
6.http://www.malariawworld