The FLOTAC ® method was developed by Professor Giuseppe Cringoli (University of Naples, Italy) to detect and quantify the number of eggs, oocysts, cysts and parasite larvae found in animals and humans. The DOLF project will use this method to measure the effect of study treatments on STH from fecal samples of all participating patients within 5 countries.
Có một xu hướng bỏ qua các vấn đề chuẩn đoán trong thời đại của “hóa trị dự phòng” bệnh ký sinh trùng đường ruột ở người. Tuy nhiên, chuẩn đoán chính xác có thể không được chú trọng tương xứng trong việc quản lý và giám sát bệnh nhân đầy đủ của các chương trình phòng chống tại cộng đồng. Chuẩn đoán một cách tuyệt đối là điều khó: càng nhiều các biện pháp can thiệp hiệu quả trong việc giảm bài tiết trứng giun thì độ nhạy của các xét nghiệm trực tiếp bệnh giun sán ký sinh càng thấp. Ở đây, từ những kinh nghiệm thu được, chúng tôiđã tóm tắt kỹ thuật FLOTAC trong chuẩn đoán bệnh giun truyền qua đất. Một tiêu bản FLOTACđơn có độ nhạy cao hơn nhiều so với đa tiêu bản dày Kato – Katz khi phát hiện bệnh với cường độ thấp. Hơn nữa, kỹ thuật FLOTAC cũng được xác nhận là có giá trị trong việc thiết lập dịch tễ học khác, bao gồm chuẩn đoán bệnh sán máng và bệnh sán truyền qua thức ăn.
1. Giới thiệu:
Chìa khóa chiến lược nhằm giảm tình trạng nhiễm bệnh giun truyền qua đất (giun đũa, giun móc, giun tóc) ở các nước có vùng dịch tễ là phân phát số lượng lớn thuốc giun tới những nhóm có nguy cơ cao, mà chưa được chẩn đoán trước đó. Chiến lược này được gọi là “phương pháp hóa trị liệu phòng bệnh”. Theo như kết quả của các chương trình phòng chống giun thành công, tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm giảm, các kỹ thuật chẩn đoán trực tiếp trở nên ít chính xác. Ở đây, chúng tôi tổng hợp lại các kinh nghiệm đã thu được để có phương pháp đếm trứng giun mới – kỹ thuật FLOTAC – trong chẩn đoán bệnh giun ở người. So sánh giữa 1 tiêu bản FLOTAC đơn với đa tiêu bản dày Kato – Katz.
2. Phương pháp:
-Chúng tôi tập trung vào 3 nghiên cứu mà sử dụng kỹ thuật FLOTAC chẩn đoán bệnh giun ở người: một nghiên cứu tại Zanzibar và hai nghiên cứu tại Côte d’lvoire (D.Glinz và cộng sự, số liệu không công bố). Các nghiên cứu dựa trên các điều tra dịch tể cắt ngang và tổng cộng 493 học sinh tiểu học tham gia. Ở cả hai nghiên cứu Côte d’lvoire, mổi trẻ lấy một mẩu phân, làm 2 đến 3 tiêu bản Kato – Katz dày, sử dụng tấm đong 41.7mg. Ở nghiên cứu Zanzibar, lấy liên tiếp 3 mẩu phân, làm mổi mẩu 1 tiêu bản Kato – Katz. Ngoài ra, mổi trẻ lấy khoảng 1g phân, được bảo quản trong SAF để thực hiện kỹ thuật FLOTAC. Các mẩu phân của nghiên cứu thứ nhất Côte d’lvoire và nghiên cứu Zanzibar được bảo quản và chuyển tới Naples, Italia, trong thời gian 6 tháng sau khi thu thập mẫu phân. Các mẫu của nghiên cứu thứ hai Côte d’lvoire sau khi thu thập được xét nghiệm ở ngày đầu, ngày thứ 10, 30 và 83.
-Quá trình chi tiết của kỹ thuật FLOTAC được mô tả ở một bài khác. Tóm lại, trong nghiên cứu thứ nhất Côte d’lvoire và Zanzibar, sử dụng dung dịch nổi số 4 (FS4; Zn SO4 cộng KI, trọng lượng riêng = 1,45). Trong nghiên cứu thứ hai Côte d’lvoire, thêm một bước rửa với ete để soi rõ ràng hơn dưới kính hiển vi. Ở đây sử dụng FS4 và FS7 (ZnSO4, trọng lượng riêng = 1.35) số trứng trên 1 gam phân (EPG) của mỗi loại giun được đếm. Kết quả kết hợp (FLOTAC đơn và đa Kato – Katz) được xem là tiêu chuẩn “vàng” trong chẩn đoán.
3. Kết quả:
-Các kết quả từ 3 nghiên cứu được tổng hợp ở Bảng 1. Nghiên cứu thứ nhất Côte d’lvoire đã chỉ ra rằng 1 tiêu bản FLOTAC nhạy hơn 2 tiêu bản Kato – Katz trong chẩn đoán giun móc (độ nhạy: 88.2% so với 68.4%). Điều này được xác nhận trong nghiên cứu Zanzibar: độ nhạy của một tiêu bản FLOTAC để chẩn đoán giun móc là 83%, trong khi 3 tiêu bản Kato – Katz chỉ có độ nhạy là 46%. Điều quan trọng là FLOTAC cũng nhạy hơn trong chẩn đoán giun tóc (T.trichiura) và giun đũa (A.lumbricoides). Trong nghiên cứu thứ hai Côte d’lvoire, FLOTAC có độ nhạy cao hơn so với ba Kato – Katz khi chẩn đoán giun tóc ở mỗi thời điểm và chẩn đoán giun móc ở ngày thứ 10 và 30, nhưng lại không nhạy ở ngày thứ 83. Trong nghiên cứu này, FLOTAC lại có độ nhạy thấp hơn so với ba Kato – Katz khi chẩn đoán giun đũa. Trong khi độ nhạy của FLOTAC được quan sát giảm rõ ràng khi chẩn đoán giun móc và giun đũa vì quá trình bảo quản phân thì độ nhạy chẩn đoán giun tóc tăng từ 93.9 lên 100%.
4. Thảo luận:
-Kinh nghiệm của chúng tôi xác định bằng kỹ thuật FLOTAC đơn nhạy hơn so với đa tiêu bản dày Kato – Katz trong chẩn đoán bệnh giun truyền qua đất có cường độ thấp. Những đặc điểm về dịch tễ có thể giải thích cho một vài sự khác nhau về chẩn đoán độ nhạy. Hơn nữa, thêm bước rữa ete trong nghiên cứu thứ hai Côte d’lvoire cao hơn so với FLOTAC đối với chẩn đoán giun đũa, nhưng lại thấp hơn đối với giun tóc. Trong nghiên cứu này, việc nhiễm giun đũa cao tương đối (cường độ có ý nghĩa: 1318 EPG theo như ba Kato – Katz), nhưng việc nhiễm giun tóc có cường độ thấp (6.2 EPG khi sử dụng ba Kato – Katz). Trong nghiên cứu Zanzibar, nơi nào nhiễm giun truyền qua đất có chỉ số EPG thấp thì FLOTAC có độ nhạy cao hơn đáng kể so với đa Kato – Katz.
-Ở nghiên cứu thứ hai Côte d’lvoire, độ nhạy của FLOTAC tăng rõ ràng được coi như là một hàm của quá trình bảo phân dài hơn, đáng ngạc nhiên đặc biệt trong chẩn đoán giun móc. Thật vậy, ở nghiên cứu thứ nhất Côte d’lvoire và Zanzibar, với các mẫu phân được bảo quản trong SAF trong khoảng 6 tháng được phát hiện có độ nhạy có độ nhạy cao đối với chẩn đoán giun móc. Tuy nhiên, từng cỡ riêng biệt ở kỹ thuật FLOTAC của các mẫu cũng được giữ trong SAF trong khoảng 6 tháng và sử dụng dung dịch nổi khác nhau, các bước rữa có và không có ete, điều đó có thể cho thấy trứng giun móc được phát hiện tốt chỉ khi có ete. Do đó, độ nhạy trong chẩn đoán giun móc giảm rõ ràng ở kỹ thuật FLOTAC dường như không phải là vấn đề phải bàn. Trừ khi, chúng ta suy xét rằng trứng giun móc bị hỏng trong quá trình bảo quản SAF và đồng thời sử dụng ete. Một bài học quan trọng là các loại trứng giun phải được tính toán một cách độc lập khi sử dụng kỹ thuật FLOTAC đối với: (1) dung dịch nổi; (2) việc sử dụng ete; (3) môi trường bảo quản phân (ví dụ SAF hoặc foocmon). Cái đã được biết ở một ký sinh trùng này không thể áp dụng cho các ký sinh trùng khác.
-Những thuận lợi và bất lợi của 2 kỹ thuật FLOTAC và Kato – Katz được tổng hợp ở Bảng 1 (bổ sung). Mặc dù, FLOTAC có độ nhạy cao hơn đối với việc nhiễm giun truyền qua đất có cường độ nhiễm thấp, nhưng nó lại mất nhiều thời gian trong quá trình chuẩn bị. Về dụng cụ FLOTAC đắt hơn Kato – Katz. Tuy nhiên, vì độ nhạy thấp của Kato – Katz đơn, một tiêu bản dày thì các xét nghiệm khác được xuất phát từ nhiều mẫu phân, được khuyến khích là lý tưởng để có kết quả đáng tin cậy. Rõ ràng là làm mẫu nhắc lại sẽ giảm sự ủng hộ của bệnh nhân và tăng tổng giá thành. Giá trị kinh tế và khả năng chẩn đoán của kỹ thuật FLOTAC trong phát hiện trứng các loài giun khác (ví dụ, giun kim Enterobius vermicularis, sán máng Schistosoma mansoni và sán lá truyền qua thức ăn) cũng đang được thực hiện. Cuối cùng, việc chẩn đoán chính xác của kỹ thuật FLOTAC trong các thử nghiệm thuốc giun có hiệu quả là chủ đề của các điều tra hiện tại của chúng tôi trong nghiên cứu Zanzibar. Nhìn vào các kết quả nổi bật ở đây, chúng tôi cảm thấy kỹ thuật FLOTAC có thể trở thành một công cụ hữu hiệu cho việc quản lý bệnh nhân chính xác và theo dõi nghiêm ngặt các nghiên cứu can thiệp thuốc cộng đồng từ các chương trình phòng chống giun sán cộng đồng.
Comparison of the FLOTAC-400 Dual Technique and the Formalin-Ether Concentration Technique for the Diagnosis of Human Intestinal Protozoa Infection
Sören L. Becker1,2,3, Laurent K. Lohourignon4, Benjamin Speich1,2, Laura Rinaldi5, Stefanie Knopp1,2, Eliézer K. N'Goran4,6, Giuseppe Cringoli5 and Jürg Utzinger1,2,*
1 Department of Epidemiology and Public Health, Swiss Tropical and Public Health Institute, Basel, Switzerland
2 University of Basel, Basel, Switzerland
3 Center for Infectious Diseases and Travel Medicine, Department of Medicine, University Hospital Freiburg, Freiburg im Breisgau, Germany
4 Unité de Formation et de Recherche (UFR) Biosciences, Université de Cocody-Abidjan, Abidjan, Côte d'Ivoire
5 Department of Pathology and Animal Health, Faculty of Veterinary Medicine, University of Naples ‘Federico II’, Regional Center for Monitoring Parasites (CREMOPAR), Regione Campania, Naples, Italy
6 Centre Suisse de Recherches Scientifiques en Côte d'Ivoire, Abidjan, Côte d'Ivoire
* Corresponding author. Mailing address: Department of Epidemiology and Public Health, Swiss Tropical and Public Health Institute, P.O. Box, CH-4002 Basel, Switzerland. Phone: +41 61 284-8129. Fax: +41 61 284-8105. E-mail: juerg.utzinger@unibas.ch< script type=text/javascript>< /script> .
ABSTRACT
There is a need for accurate diagnosis of intestinal parasite infections in humans, but currently available copromicroscopic techniques have shortcomings, such as low sensitivity. We compared the diagnostic accuracy of a further modified version of the recently developed FLOTAC technique with the widely used formalin-ether concentration technique (FECT) for the detection of intestinal protozoa in human stool samples. Formaldehyde-preserved stool samples from 108 individuals in Côte d'Ivoire were subjected to the FLOTAC-400 dual technique using two different flotation solutions (FS), and the FECT. Stool samples were examined according to computer-generate random lists by an experienced laboratory technician blinded for the results of each method. Both methods detected the same eight intestinal protozoa species. Whilst the FLOTAC-400 dual technique (results from both FS combined) found higher prevalences of Entamoeba coli (77.8% vs. 71.3%, p<0.001), Blastocystis hominis (20.4% vs. 13.0%, p=0.458) and Giardia intestinalis (8.3% vs. 6.5%, p<0.001), the FECT detected higher prevalences of Entamoeba histolytica/E.°dispar (27.8% vs. 20.4%, p=0.019) and four species of non-pathogenic intestinal protozoa. The diagnostic agreement between the two methods differed considerably depending on the intestinal protozoa investigated (kappa measures; range, 0.01-0.46). Our study confirmed that the FLOTAC-400 dual technique can be utilized for diagnosis of intestinal protozoa infections in humans. Since FLOTAC is a sensitive technique for the detection of soil-transmitted helminths and Schistosoma mansoni, it might become a viable copromicroscopic technique for the concurrent diagnosis of helminths and intestinal protozoa infections.
FLOTAC: a new sensitive technique for the diagnosis of hookworm infections in humans.
Utzinger J, Rinaldi L, Lohourignon LK, Rohner F, Zimmermann MB, Tschannen AB, N'goran EK, Cringoli G.
Department of Public Health and Epidemiology, Swiss Tropical Institute, P.O. Box, CH-4002 Basel, Switzerland.
Abstract
Hookworms infect more than 10% of the world's population, but current diagnostic tools have drawbacks. Our objective was to compare the diagnostic performance of three methods (Kato-Katz, ether concentration and FLOTAC techniques) for hookworm diagnosis. Stool samples were obtained from 102 schoolchildren in Côte d'Ivoire. First, a duplicate 41.7mg Kato-Katz thick smear was prepared. Next, a small portion of stool (mean weight 1.8g) was preserved in sodium acetate-acetic acid-formalin and forwarded to a European laboratory. These samples were split in three parts, one processed by an ether concentration technique and two by the FLOTAC technique. All samples were examined by experienced technicians for hookworm eggs using light microscopy. The observed hookworm prevalences as assessed by the FLOTAC, Kato-Katz and ether concentration techniques were 65.7%, 51.0% and 28.4%, respectively. Considering the combined results as the diagnostic 'gold' standard, the FLOTAC technique had a sensitivity of 88.2% compared with 68.4% for the Kato-Katz and 38.2% for the ether concentration techniques. The Kato-Katz method resulted in a significantly higher mean number of eggs per gram of stool (155.8 EPG) compared with the FLOTAC (37.7 EPG) and ether concentration (5.7 EPG) methods. The FLOTAC method shows promise as an important new tool for individual hookworm diagnosis and for rigorous monitoring of helminth control programmes. [Clinical Trial No. ISRCTN21782274].
FLOTAC: A promising technique for detecting helminth eggs in human faeces☆