Cùng với sự phát triển vượt bậc về khoa học kỹ thuật trong thời đại hiện nay, công nghệ thông tin đã đóng góp một phần không nhỏ trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta đang phát động
Được sự đầu tư của Bộ Y tế, trong những năm qua hoạt động Công nghệ thông tin (CNTT) của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã có nhiều bước tiến quan trọng cả về lượng và chất. Cùng với việc duy trì hoạt động website, Viện đã và đang từng bước xây dựng các ứng dụng CNTT phục vụ cho công tác phòng chống dịch bệnh, quản lý bệnh nhân và quản lý đơn vị…
Những việc đã làm được:
Sau hơn hai năm hoạt động, Website của Viện đã trở thành cầu nối giữa Viện với Bộ y tế, các tỉnh và đặc biệt là đông đảo các đồng nghiệp quan tâm đến công tác phòng chống bệnh sốt rét, phòng chống các bệnh ký sinh trùng và côn trùng truyền bệnh với hơn 1000 bài viết; trong đó có rất nhiều thông tin về chuyên môn có giá trị giúp cho Viện chỉ đạo tốt công tác phòng chống dịch bệnh, đặc biệt là khống chế sự gia tăng của bệnh sốt rét cũng như sán lá gan lớn ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên trong năm 2006.
Trong Hội thảo quốc gia lần thứ IV tổ chức tại TP. Huế (21-22/9/2006) Bộ Giáo dục-Đào tạo và Bộ Y tế đã có những tổng kết quan trọng về ứng dụng CNTT. Tuy nhiên, ngoài phần mềm quản lý bệnh viện đang được triển khai, việc ứng dụng CNTT trong các cơ quan thuộc khối y tế dự phòng còn rất nhiều lúng túng, chưa thống nhất với nhau; ngay cả việc sử dụng mã nguồn mở đến nay cũng chỉ dừng lại ở mức thử nghiệm. Trong bối cảnh đó Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã mạnh dạn xây dựng Phần mềm quản lý sốt rét (MMS) là phần mềm tích hợp các công cụ về vẽ biểu đồ, bản đồ, dự báo dịch sốt rét. Trước khi triển khai ứng dụng trên diện rộng, đầu năm 2007 Viện đã cho triển khai thí điểm ở tỉnh Thừa Thiên-Huế (đại diện cho cụm Bắc miền Trung), tỉnh Khánh Hòa (đại diện cho cụm Nam Trung bộ) và tỉnh Đăk Lăk (đại diện cho cụm Tây Nguyên); từ kinh nghiệm của các thí điểm này Viện sẽ sửa chữa các lỗi, hoàn chỉnh phần mềm và chính thức sử dụng ở tất cả các tỉnh trong khu vực. Qua phần mềm này việc báo cáo hàng tháng từ tuyến dưới lên trên sẽ theo một quy trình chặt chẽ và chính xác, tạo điều kiện cho công tác giám sát và chỉ đạo phòng chống sốt rét ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên có hiệu quả. Cùng với MMS, Viện cũng đã hoàn chỉnh đưa vào ứng dụng Phần mềm quản lý phòng khám để phục vụ công tác khám chữa bệnh chuyên khoa và giúp cho y bác sĩ tại phòng khám cũng như lãnh đạo đơn vị quản lý chặt chẽ bệnh nhân từ khâu nhập viện, điều trị, xét nghiệm cận lâm sàng, các khoản thu dịch vụ phí.
|
TS Hồ Văn Hòang đang triển khai thí điểm phần mềm |
Ngoài việc xây dựng các phần mềm quản lý chuyên môn, Viện cũng đã triển khai ứng dụng các phần mềm quản lý đơn vị theo hướng dẫn của Bộ Y tế như Phần mềm quản lý tài chính, Phần mềm quản lý nhân sự, Phần mềm quản lý công văn… Đặc biệt là để giản tiện các thủ tục hành chính, việc xây dựng Văn phòng điện tử (e-Office) là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Với tinh thần đó trong những năm qua,Viện đã xây dựng và đưa vào sử dụng mạng nội bộ (LAN), xây dựng và khai thác Hộp thư điện tử nội bộ nối tất cả các Khoa/Phòng; thành lập Trung tâm máy tính phục vụ công tác nhập dữ liệu và truy cập internet cho cán bộ viên chức nên việc trao đổi thông tin trong Viện trở nên thuận tiện và rất hiệu quả, hạn chế các cuộc họp không cần thiết.
Những khó khăn tồn tại:
Những bài học của đề án 112 vừa qua đã để lại cho chúng ta nhiều bài học đắt giá, các vấn đề về nhân lực hiện nay vẫn là một trở ngại khó vượt qua. Với mức thu nhập chưa đủ thu hút như hiện nay, hầu như các cơ quan và đặc biệt là các cơ quan hoạt động về công nghệ còn thiếu rất nhiều các cán bộ giỏi phục vụ CNTT; trang thiết bị máy móc phục vụ công nghệ thông tin có thể thực hiện rất nhanh, nhưng vấn đề con người có lẽ sẽ còn phải nhiều năm nữa. Việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là một bước chuyển quan trọng của đất nước, nhưng cũng đặt cho chúng ta nhiều thách thức. Trong lĩnh vực CNTT, chúng ta phải tuân thủ việc thực hiện bản quyền phần mềm; việc sử dụng phần mềm lậu, bất hợp pháp sẽ không còn nữa. Liệu chúng ta sẽ đi theo hướng mã nguồn mở hay buộc phải mua phần mềm bản quyền ? liệu ở Việt Nam người dùng có chấp nhận phần mềm mã nguồn mở không ?
Ngay việc phát triển phần mềm vẫn còn nhiều điều phải suy nghĩ, hầu như mỗi cơ quan đều tự xây dựng phần mềm cho riêng mình, vừa tốn công sức, thời gian, vừa tốn tiền của. Lấy ví dụ như phần mềm quản lý bệnh viện, Bộ Y tế cũng chỉ đưa ra khung chung, còn các bệnh viện phải tự xây dựng lấy; nếu sau này có yêu cầu trao đổi cơ sở dữ liệu với nhau thì rất khó thực hiện.
Việc đầu tư cho CNTT đến nay vẫn còn nhiều bất cập, các quy định chi bồi dưỡng cho người làm CNTT, làm Website hầu như còn bỏ ngỏ nên nhiều đơn vị rất khó khăn khi triển khai. Sau khi hết dự án, việc bảo trì, nâng cấp trang thiết bị là một yêu cầu cấp thiết nhưng lại thiếu vốn đầu tư chưa có phương án giải quyết.
Những hoạt động CNTT trong thời gian đến:
|
Quang cảnh bên ngòai Hội thảo quốc gia về CNTT lần thứ IV |
Bên cạnh duy trì có hiệu quả hoạt động Website, Viện cần hoàn thiện Phần mềm MMS tại các thí điểm để sớm triển khai ứng dụng trong khu vực, tăng cường hiệu quả sử dụng các phần mềm phục vụ công tác quản lý khác như: Quản lý bệnh nhân, Quản lý công văn, Quản lý nhân sự; đồng thời có kế hoạch xây dựng các Phần mềm quản lý bệnh giun sán, Phần mềm quản lý chương trình/dự án, quản lý thuốc sốt rét/hóa chất diệt côn trùng và các phần mềm ứng dụng khác…
Những thành công bước đầu trong ứng dụng CNTT tại Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn trước hết là nhờ sự quan tâm đầu tư của Bộ Y tế, sự ủng hộ của lãnh đạo và sự đồng tâm nhất trí của tập thể cán bộ viên chức Viện. Tin rằng thời gian đến việc ứng dụng CNTT tại Viện và các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên ngày càng được nâng cao góp phần tích cực vào công tác kiểm soát dịch bệnh tại các địa phương trong khu vực.