Hoạt động KH&CN ở nước ta còn quá yếu nên số đơn và số lượng bằng được cấp của người nộp đơn Việt Nam còn quá ít ỏi. Điều này trái ngược với tình hình nộp đơn ở các nước phát triển (Mỹ, Nhật, Hàn Quốc…), nơi số lượng đơn trong nước thường lớn hơn số lượng đơn nước ngoài. Điều đó cho thấy, nếu không chú trọng vào việc khai thác thông tin sáng chế (TTSC) thì hệ thống bảo hộ TTSC không mang lại hiệu quả thiết thực cho xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngày 28/03/2008, Sở Khoa học và Công nghệ Tp.Quy Nhơn phối hợp với Trung tâm Cục Sở Hữu Trí Tuệ tổ chức buổi Hội thảo chuyên đề "Khai thác và ứng dụng thông tin sáng chế trong nghiên cứu khoa học , ứng dụng và phát triển công nghệ" dành cho các đối tượng là cán bộ nghiên cứu và giảng dạy tại các trường Đại học, Viện Nghiên cứu và các sinh viên năm cuối các trường Đại học. Tại buổi Hội thảo này,các báo cáo viên đã trình bày các chủ đề liên quan đến vai trò của thông tin sáng chế trong nghiên cứu khoa học và một số các phương pháp khai thác và ứng dụng thông tin sáng chế cũng như các cơ chế và công cụ tra cứu thông tin sáng chế, trong đó Kỹ sư Nguyễn Tuấn Hưng-Giám đốc Trung tâm thông tin- Cục Sở Hữu Trí Tuệ còn giới thiệu thêm dịch vụ thông tin sáng chế mới của WIPO có tên là PatentScope. Với dịch vụ mới này, người sử dụng có thể tra cứu được các Đơn Sáng chế mới nhất được nộp theo hệ thống PCT (Patent Cooperation Treaty) và các thông tin liên quan ở hơn 30 quốc gia tham gia dự án PatentScope . Hội thảo cũng đã được tiếp cận với một số đại chỉ website liên quan vấn đề này như : Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (http://www.noip.gov.vn) , Cơ quan sáng chế Châu Âu (http://ep.espacenet.com ), Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ (http://www.uspto.gov) , Cơ quan sáng chế Nhật Bản (http://www.jpo.go.jp) , Cơ quan sáng chế Anh (http://www.ipo.gov.uk ),...
Nội dung buổi Hội thảo nêu lên được vấn đề Hệ thống sở hữu trí tuệ (SHTT) có hai chức năng chính, đó là "chức năng cấp và bảo hộ độc quyền" và "chức năng thông tin" trong các hoạt động liên quan đến quyền SHTT. Với chức năng thông tin, hệ thống SHTT có nghĩa vụ phổ biến thông tin rộng rãi cho công chúng trong phạm vi quốc gia và quốc tế nhằm khuyến khích hoạt động sáng tạo và thúc đẩy nghiên cứu, phát triển công nghệ mới. Thông tin sáng chế (TTSC) mô tả chi tiết các giải pháp công nghệ mới là thành quả của các hoạt động sáng tạo, và được các cơ quan công bố rộng rãi.
Theo thống kê của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO), hằng năm thế giới có khoảng 1,5 triệu đơn đăng ký sáng chế. Cho đến nay, ước tính có khoảng hơn 50 triệu sáng chế đã được công bố trên toàn thế giới. Riêng với Việt Nam, tính đến cuối tháng 6/2007 đã cấp 6.469 bằng độc sáng chế (4,7% của người Việt Nam và 95,3% của người nước ngoài), 625 bằng độc quyền giải pháp hữu ích (60,1% của Việt Nam và 39,9% của nước ngoài), 10.715 bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp (87,8% của Việt Nam và 12,2% của nước ngoài). Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã có nhiều nỗ lực trong việc hợp tác về thông tin, tư liệu với các nước và tổ chức quốc tế, đã cho ra đời khoảng 30 triệu bản mô tả sáng chế ở dạng CD-ROM và các thiết bị máy tính rất thuận tiện cho việc tra cứu. Ngoài ra, Cục còn xây dựng 2 trung tâm thông tin ở TP.HCM và Đà Nẵng nhằm phục vụ TTSC cho công chúng. Đây có thể nói là một sự nỗ lực rất lớn của Việt Nam trong việc bảo hộ quyền đối với sáng chế.
Hệ thống bảo hộ quyền SHTT trong đó có bảo hộ sáng chế đã làm cho các nhà sáng tạo chấp nhận nghĩa vụ bộc lộ thông tin công nghệ mới để đổi lại việc họ có được một số độc quyền khai thác thương mại thành quả đã được sáng tạo ra. Nhờ đó, công chúng được phép tiếp cận các nguồn TTSC này trong phạm vi quốc gia và quốc tế thông qua hệ thống công bố rộng rãi bằng các phương tiện internet, CD-ROM và Công báo sáng chế. Các cơ quan sáng chế quốc gia và quốc tế có nghĩa vụ xây dựng cơ sở dữ liệu sáng chế và cung cấp phương tiện truy cập miễn phí phục vụ các nhu cầu tra cứu TTSC.
Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, các nhà nghiên cứu và phát triển công nghệ mới, các công ty hàng đầu trên thế giới đã khai thác tích cực và sử dụng hiệu quả nguồn TTSC như một công cụ hoạch định chiến lược nghiên cứu, kinh doanh và xác định tiềm năng của đối tác trên thương trường. Hiệu quả kinh tế lớn nhất từ hệ thống bảo hộ quyền SHTT là việc công bố TTSC của các đối thủ cạnh tranh chứ không chỉ đơn thuần là các khoản thu có được từ việc khai thác, sử dụng công nghệ được cấp văn bằng bảo hộ. Tuy nhiên, với tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ, kéo theo một khối lượng lớn các sáng chế luôn được cập nhật vào nguồn TTSC đã nảy sinh một vấn đề: không thể dừng lại ở việc phân tích TTSC một cách riêng rẽ và tách biệt nhau. Xuất phát từ các nhu cầu này, ứng dụng công nghệ thông tin để phát huy tối đa lợi thế về khả năng xử lý, phân tích và kết xuất các nguồn thông tin số.
 |
Toàn cảnh Hội thảo |
Trong hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam, việc hiểu rõ giá trị của TTSC còn hạn chế. Nhiều cá nhân và tổ chức nghiên cứu chưa có thói quen và nhu cầu sử dụng TTSC trước khi thực hiện đề tài, dẫn đến tình trạng mới và tính sáng tạo trong các kết quả nghiên cứu còn thấp hoặc thực hiện nghiên cứu trùng lặp với những giải pháp công nghệ đã được bộc lộ trong dữ liệu TTSC. Hơn nữa, công việc tra cứu TTSC và xử lý kết quả tìm được đòi hỏi trình độ chuyên nghiệp cao. Do vậy, cần thiết hình thành các bộ phận hoặc nhóm chuyên trách về tra cứu TTSC trong các cơ quan thông tin khoa học công nghệ có trình độ cao, nắm bắt được nhu cầu thông tin và hướng dẫn hoặc thực hiện, ứng dụng tin học trong khai thác TTSC ở những mức độ phức tạp khác nhau, nhằm tạo ra được các sản phẩm thông tin chọn lọc đáp ứng yêu cầu cụ thể của từng đối tượng sử dụng thông tin.
Mặc khác, tại buổi Hội thảo, Đồng chí Nguyễn Tuấn Hưng cung trình bày kinh nghiệm khai thác thông tin sáng chế một cách hiệu quả phải tiến hành một số công việc như:
Nâng cao nhận thức và trình độ của cán bộ làm việc trong lĩnh vực TTSC trên cơ sở: Điều tra về nhu cầu dùng tin; trình độ của người sử dụng thông tin; phân loại các đối tượng sử dụng thông tin sáng chế để có chương trình đào tạo phù hợp (kể cả thông tin khoa học kỹ thuật nói chung và thông tin sáng chế nói riêng); chuẩn bị tài liệu phù hợp để đào tạo cho từng loại đối tượng.
Sử dụng tối đa công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghệ mạng để tiến tới xây dựng mạng thông tin SHTT rộng khắp cả nước.
Nâng cao trình độ chuyên môn cũng như năng lực nắm bắt nhu cầu và đáp ứng kịp thời nhu cầu thông tin SHTT của các chuyên viên.
Tập trung xây thư viện điện tử bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh, thiết kế các công cụ tra cứu tích hợp (kể cả phần mềm dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt và ngược lại) để mọi người có thể truy cập thông tin một cách thuận tiện, giảm thời gian tra cứu, nâng cao độ chính xác của thông tin tra cứu.
Tiếp tục thu thập tư liệu sở hữu trí tuệ trên cơ sở trao đổi với các nước và các tổ chức quốc tế; tìm các nguồn tư liệu liên quan đến các đối tượng sở hữu trí tuệ để có đủ thông tin.
Tăng cường dịch vụ thông tin sáng chế nhằm cung cấp thông tin cũng như sản phẩm thông tin phù hợp trên cơ sở điều tra về nhu cầu và cách sử dụng thông tin sáng chế của các đối tượng.
Tuy nhiên, việc khai thác, sử dụng thông tin sáng chế ở nước ta vẫn chưa phổ biến. Kỹ sư Nguyễn Tuấn Hưng-Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam đã đề cập đến một số nguyên nhân chính như sau:
1. Thứ nhất, do người Việt Nam chưa hiểu rõ giá trị của TTSC. Nhiều cá nhân và tổ chức nghiên cứu chưa có thói quen và nhu cầu sử dụng TTSC trước khi thực hiện đề tài, dẫn đến tính sáng tạo trong các kết quả nghiên cứu còn thấp hoặc thực hiện nghiên cứu trùng lặp với những giải pháp công nghệ đã được bộc lộ trong dữ liệu TTSC.
2. Thứ hai, công việc tra cứu TTSC và xử lý kết quả tìm được đòi hỏi trình độ chuyên nghiệp cao. Do vậy, cần thiết hình thành các bộ phận hoặc nhóm chuyên trách về tra cứu TTSC trong các cơ quan thông tin khoa học công nghệ có trình độ cao, nắm bắt được nhu cầu thông tin và hướng dẫn hoặc thực hiện, ứng dụng tin học trong khai thác TTSC ở những mức độ phức tạp khác nhau, nhằm tạo ra được các sản phẩm thông tin chọn lọc đáp ứng yêu cầu cụ thể của từng đối tượng sử dụng thông tin.
3. Thứ ba, hiện nay, thông tin sáng chế chưa trở thành nhu cầu cấp thiết của các trường đại học kỹ thuật, viện nghiên cứu và các doanh nghiệp; công tác tuyên truyền, phổ biến chưa làm tốt nên sự hiểu biết của các nhà khoa học trong các cơ quan nghiên cứu - triển khai hạn chế; hàng rào ngôn ngữ cũng như việc đọc, hiểu thông tin sáng chế còn gặp nhiều khó khăn; hệ thống thông tin sáng chế không thuận tiện cho việc khai thác, mặc dù hiện nay những thông tin này chủ yếu được tra cứu thông qua internet; dịch vụ thông tin sáng chế chưa tốt.
Thời gian tới, Cục Sở hữu Trí tuệ sẽ tiếp tục thu thập dữ liệu sáng chế trên cơ sở trao đổi với các nước và tổ chức quốc tế để có những thông tin mới nhất. Bên cạnh đó, Cục cũng tiến hành xây dựng thư viện điện tử bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh và thiết kế các công cụ tra cứu tích hợp (kể cả phần mềm dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt và ngược lại) để người cần thông tin có thể truy cập thông tin một cách thuận tiện, rút ngắn thời gian tra cứu, nâng cao độ chính xác của thông tin tra cứu được.