Đăk Nông có 100% dân số nằm trong vùng sốt rét lưu hành, trong đó vùng nặng chếm >80%, tình hình sốt rét diễn biến phức tạp nguy cơ bùng phát dịch sốt rét rất lớn; bệnh nhân sốt rét (BNSR), sốt rét ác tính (SRAT) và tử vong sốt rét (TVSR) tập trung chủ yếu ở đối tượng dân di cưtự do.
Theo số liệu của Chi cục hợp tác và phát triển nông thôn tỉnh Đăk Nông, từ năm 2004 đến nay dân số tỉnh Đăk Nông chủ yếu là tăng cơ học do dân di cưtự do từ các tỉnh miền núi phía Bắc đến lập nghiệp với 12.936 khẩu,2.086 hộ; trong đó l.896 hộ (90,8%) chưa có chổ ở lập nghiệp sống tạm bợ trong rừng và bìa rừng rải rác thành nhiều cụm dân cư 5-10 hộ gia đình, không có màn tránh muỗi đốt nên khó khăn trong phòng chống sốt rét (PCSR) và tiếp cận y tế cơ sở.
Trung đoàn 720 là đơn vị quân đội làm kinh tế đóng trên địa bàn xã Đăk Ru huyện Đăk RLấp là điểm có dân di cư đến nhiều nhất năm 2004 có 428 người (62,8%), năm 2006 có 738 người (93,7%) và sốt rét cao nhất 27,3% (2004), l8,0% (2005) và 1 ca TVSR (2005).
Để giải quyết vấn đề phòng chống sốt rét ở nhóm dân di cư tự do,Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Đăk Nông đã tiến hành theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện một số biện pháp PCSR tại 3 điểm dân di cư tự do là E720 (Đăk RLấp), Dăk Rmăng (Dăk Glong) và Đăk Ndrót (Đăk Min) thông qua số liệu ở 3 trạm y tế xã và điều tra cắt ngang 2 đợt/năm tạí E720 (tháng 5 và l 0).
1. Biện pháp thực hiện:
- Biện pháp điều trị: tổ chức phát hiện, điều trị bệnh nhân sốt rét lâm sàng và bệnh nhân có KSTSR 2 đợt/năm vào thời điểm đỉnh bệnh SR (tháng 5 và 10), Y tế các thôn (đội sản xuất) thường xuyên tổ chức phát hiện, điều trị BNSR và cấp thuốc tự điều trị cho đối tượng nguy cơ cao.
- Biện pháp phòng chống vec tơ: tiến hành cả 2 biện pháp phun tồn lưu trên tường vách (nồng độ 30mg/m2) và tẩm màn (nồng độ 20mg/m2); tổ chức điều tra màn và cấp 1.771 chiếc màn tẩm hóa chất trong năm 2005 để người dân có đủ màn nằm phòng chống muỗi đốt (2 người/màn).
- Tuyên truyền PCSR đến từng hộ gia đình và trong các cuộc họp do y tế đội tổ chức hàng tháng cho 1600 số lượt người tham dự.
2. Kết quả đánh giá tình hình sốt rét :
- Điểu tra dịch tễ sốt rét tại thời điểm tháng 5/2004 và 5/2006 thấy BNSR giảm 56,3% ; tỷ lệ KSTSR/lam giảm 63,3%
- Điều tra dịch tễ sốt rét tại thời điểm tháng 10/2004 và 10/2006 thấy BNSR giảm 77,6%, tỷ lệ KSTSR/lam giảm 100% ( xét nghiệm 519 lam không tìm thấy trường hợp nào nhiểm KSTSR).
- Cơ cấu KSTSR tháng 5/2006 đã có sự chuyển dịch so với tháng 5/2004 (P.falciparum giảm 14,3%, P.vivax tăng 33,3%) chứng tỏ các biện pháp can thiệp có hiệu quả.
- Tỷ lệ mắc SR ở trẻ em < 14 tuổi giảm dần đến tháng 10/2006 không còn phát hiện trường hợp nào mắc sốt rét.
 |
Người dân H'Mông tại Đăk Nông |
- Tỷ lệ mắc SR/1.000 DSC ở cả 3 điểm giảm 68,1 % (E720), 57,3% (Đăk R’măng) và giảm 61,3% (Dăk Ndrót).
Đến năm 2006 mặc dù tình hình sốt rét đã giảm đáng kể, nhưng nguy cơ bùng phát sốt rét trở lại và khả năng xảy dịch rất lớn do dân di cư tự do vẫn tiếp tục đến địa phương thành nhiều đợt rải rác không kiểm soát được và khi bị sốt rét họ thường sử dụng lá cây rừng để điều trị thay vì đến y tế cơ sở.
3. Kinh nghiệm phòng chống sốt rét cho dân di cư tự do:
Để PCSR có hiệu quả cho dân di cư tự do trước hết phải phát hiện kịp thời các cụm người dân di cư sinh sống để can thiệp các biện pháp PCSR, xây dựng mạng lưới y tế cụm và tập huấn cách phòng chống sốt rét. Kết quả nghiên cứu 2 năm tại E 720 (Đăk R Lấp), Đăk Ndrót (Đăk Min) và Đăk R'măng (Đăk Glong) thấy cần có biện pháp PCSR đồng bộ tại các điểm dân di cư (tổ chức phát hiện sớm, điều trị kịp thời ngay từ các cụm dân cư, tiến hành cả 2 biện pháp phun và tẩm hoá chất cho những điểm có diễn biến sốt rét phức tạp và có nguy cơ sốt rét cao). Y tế địa phương cần tiếp tục, thường xuyên giám sát, triển khai các biện pháp PCSR đúng quy định và đảm bảo kỹ thuật; tăng cường công tác truyền thông giáo dục PCSR cho người dân nhất là những đối tượng mới đến cư trú.