Ngày 20/2/2009 tại Hà Nội, Ban chủ nhiệm Chương trình Quốc gia phòng chống sốt rét đã tổ chức Hội nghị tổng kết phòng chống sốt rét năm 2008 và triển khai kế hoạch 2009 nhằm soát xét những kết quả đã đạt được trong việc thực hiện mục tiêu chương trình phòng chống sốt rét, đồng thời định hướng hoạt động cho thời gian tiếp theo.
Đến dự và chỉ đạo Hội nghị có PGS.TS. Trịnh Quân Huấn-Thứ trưởng Bộ Y tế; thành phần tham gia Hội nghị bao gồm Lãnh đạo và chuyên viên các Cục/Vụ chức năng thuộc Bộ Y tế, Lãnh đạo và chuyên viên các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng, Lãnh đạo Sở Y tế và Trung tâm Phòng chống sốt rét/Trung tâm Y tế dự phòng 63 tỉnh/thành phố trong cả nước; đại diện Cục Quân Y cùng các đơn vị quân y, biên phòng; các cơ quan đài/ báo Trung ương và địa phương.
Hội nghị đã nghe Báo cáo đánh giá kết quả phòng chống sốt rét quốc gia năm 2008 và kế hoạch năm 2009 do TS. Nguyễn Mạnh Hùng-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương, Chủ nhiệm Dự án Quốc gia PCSR trình bày; các Báo cáo hoạt động phòng chống sốt rét năm 2008, định hướng công tác năm 2009 khu vực miền Trung-Tây Nguyên do TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn, Phó Chủ nhiệm Dự án Quốc gia PCSR trình bày và khu vực Nam Bộ-Lâm Đồng do Ths. Lương Trường Sơn-Phó Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng TP. Hồ Chí Minh trình bày; các báo cáo tham luận về nguyên nhân ổ dịch sốt rét P.vivax tại tỉnh Cao Bằng; nguyên nhân gia tăng tử vong sốt rét tại tỉnh Gia Lai và Bình Phước; hoạt động phòng chống sốt rét trong quân đội của Cục Quân Y. Hội nghị cũng đã nghe các ý kiến thảo luận của đại biểu có mặt tại Hội nghị, đặc biệt là phát biểu của PGS.TS. Lê Đình Công-Nguyên Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương về những kinh nghiệm phòng chống sốt rét ở Việt Nam và phát biểu chỉ đạo của PGS.TS. Trịnh Quân Huấn-Thứ trưởng Bộ Y tế.
Đánh giá kết quả phòng chống sốt rét năm 2008
Năm 2008 cả nước có 60.426 bệnh nhân sốt rét giảm 14,8%; 11.355 ký sinh trùng sốt rét giảm 30,7%; 141 trường hợp sốt rét ác tính giảm 10,7%; 25 ca tử vong sốt rét tăng 25% so với cùng kỳ năm 2007 và có một vụ dịch nhỏ do P.vivax.
Mục tiêu năm 2008 | Chỉ số | So sánh chỉ số sốt rét năm 2008 với 2007 |
2007 | 2008 | % (+;-) |
Giảm mắc | -5% | Tỷ lệ BNSR/1000 DSC | 70.910 0,83 | 60.426 0,70 | - 14,8 - 15,7 |
| 16.389 0,19 | 11.355 0,13 | - 30,7 - 31,6 |
Số ca SRAT | 158 | 141 | -10,7 |
Giảm chết | - 5% | Số ca tử vong sốt rét | 20 | 25 | + 25 |
Khống chế dịch | Số vụ dịch sốt rét | 1 | 1 | - |
Về chỉ tiêu giảm mắc sốt rét thì năm 2008 số Bệnh nhân sốt rét (BNSR) toàn quốc giảm 14,8; trong đó khu vực miền Trung giảm 25%, Tây Nguyên giảm 23,3%, Đông Nam Bộ giảm 16,1%, Tây Nam bộ giảm 12,8% và các miền Bắc giảm 8% so với cùng kỳ. Có 11 tỉnh số mắc sốt rét tăng là Cao Bằng, Lạng Sơn, Phú Thọ, Vĩnh phúc, Hà Nam, Nghệ An, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh và Kiên Giang. Số mắc sốt rét có xu hướng tăng cao vào các tháng cuối năm 2008 tập trung ở các đối tượng dân di biến động (dân đi rừng, ngủ rẫy, khai thác lâm sản) và công nhân tại các công nông lâm trường xí nghiệp (CNLTXN) đóng trên địa bàn sốt rét lưu hành chưa có biện pháp bảo vệ;. cán bộ y tế xã và y tế thôn bản chưa phát hiện và điều trị sớm bệnh nhân sốt rét ngay từ cơ sở, việc cấp thuốc tự điều trị cho đối tượng di biến động vào vùng sốt rét lưu hành xa cơ sở y tế chưa đạt hiệu quả mong muốn; các công trình thủy điện, công ty cao su và CNLTXN chưa có sự phối hợp với ngành y tế địa phương trong phòng chống sốt rét cho công nhân trong phạm vi quản lý; công tác truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét chưa sâu rộng nên người dân chưa có ý thức tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét, không đến cơ sở y tế để được khám và điều trị khi có sốt.Những tháng cuối năm là mùa truyền bệnh sốt rét cũng là mùa làm rẫy của đồng bào địa phương nên số người vào vùng sốt rét lưu hành cao hơn nên hầu hết số mắc đều tập trung ở những đối tượng này, chưa có biện pháp phòng chống sốt rét tích cực cho các nhóm dân di biến động và ngành y tế rất khó kiểm soát đối tượng này vì họ thường xuyên đi xa cơ sở y tế; hơn nữa một vài năm gần đây (2007-2008) bệnh sốt rét có xu hướng giảm thấp nên nảy sinh tư tưởng chủ quan coi thường bệnh sốt rét ở người dân, thậm chí chí cả các các cấp chính quyền và một số cán bộ trong ngành y tế; diễn biến thời tiết trong năm thay đổi thất thường so với các năm trước đây, mùa nắng kéo dài và mùa mưa muộn hơn làm mùa truyền bệnh sốt rét kéo dài sang các tháng cuối năm.
 |
 |
Các đại biểu tham dự Hội nghị |
Về chỉ tiêu giảm chết sốt rét thì số Tử vong sốt rét (TVSR) toàn quốc có 25 ca tăng 25% so với năm 2007; trong đó Tây Nguyên 10/25 ca (Gia Lai 5 ca, Đăk Lắc 2 ca, Đắc Nông 1 ca, Kon Tum 1 ca, Lâm Đồng 1 ca); miền Trung 5/25 ca (Ninh Thuận 2 ca, Khánh Hòa 1 ca, Quảng Nam 1 ca, Quảng Trị 1 ca); Đông Nam bộ 6/25 ca (Bình Phước 4 ca, Bình Dương 2 ca); Tây Nam bộ 4/25 ca (An Giang 1 ca, Sóc Trăng 1 ca, Bạc Liêu 1 ca, TP. Hồ Chí Minh 1 ca); các tỉnh phía Bắc không có TVSR. Nguyên nhân tử vong sốt rét là do bệnh nhân sốt rét bị tử vong nhập viện quá muộn do tự mua thuốc điều trị ở nhà không khỏi (3-6 ngày) dẫn đến biến chứng rầm rộ ở nhiều cơ quan phủ tạng (biến chứng đa phủ tạng, mật độ ký sinh trùng sốt rét trong máu cao), quá khả năng cấp cứu của các tuyến bệnh viện, tỷ lệ chết trước 24 giờ cao; công nhân từ vùng đồng bằng chuyển lên làm việc tại các CNLTXN đóng trong vùng sốt rét lưu hành không có miễn dịch sốt rét nên khi mắc sốt rét chuyển sang sốt rét ác tính thì tỷ lệ tử vong rất cao; Bệnh viện huyện chưa đủ khả năng cấp cứu sót rét ác tính mà chỉ là nơi trung chuyển lên bệnh viện tỉnh sau khi xử lý ban đầu; màng lưới y tế xã, thôn bản và y tế CNLTXN không phát hiện và quản lý dược bệnh nhân trong địa bàn phụ trách.
Năm 2008 xuất hiện một vụ dịch sốt rét tại xóm Nậm Tàu, xã Thạch An, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng với 89 bệnh nhân sốt rét, 24 ký sinh trùng sốt rét P.vivax, không có sốt rét ác tính và tử vong sốt rét; vụ dịch được phát hiện và dập tắt kịp thời, không để lại hậu quả nghiêm trọng.
Các hoạt động phòng chống sốt rét năm 2008
Chỉ đạo tuyến:
Được tiến hành chặt chẽ, các Viện đã gửi công văn tới các địa phương yêu cầu tăng cường biện pháp phòng chống sốt rét khi dự báo tình hình sốt rét gia tăng hoặc có khả năng bùng phát dịch ở những vùng có sốt rét biến động; cử cán bộ trực tiếp chỉ đạo các tỉnh trọng điểm nhờ đó đã chủ động ngăn chặn nguy cơ xảy dịch sốt rét ở những vùng trọng điểm và thực hiện vượt chỉ tiêu phòng chống sốt rét đề ra trong năm 2008; đặc biệt khu vực miền Trung-Tây Nguyên đã tổ chức Hội thảo ứng dụng công nghệ thông tin y tế phục vụ tốt công tác quản lý bệnh sốt rét, dự báo dịch sốt rét, giảm tỷ lệ mắc và tử vong do sốt rét thông qua phần mềm quản lý sốt rét (MMS).
Các tỉnh trong toàn quốc triển khai kế hoạch phòng chống sốt rét kịp thời, các cấp chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo đúng mức vùng sốt rét trọng điểm, màng lưới y tế cơ sở (huyện, xã, thôn bản) có nhiều nỗ lực kiểm soát tình hình sốt rét; tuy nhiên công tác phát hiện, điều trị sớm và quản lý bệnh nhân sốt rét tại cơ sở còn nhiều hạn chế.
Giám sát dịch tễ:
Các Viện đã tăng cường các đoàn giám sát dịch tễ một số vùng sốt rét trọng điểm, các Trung tâm PCSR/YTDP tỉnh chú trọng nâng cao chất lượng chuyên môn kỹ thuật (phun tồn lưu hóa chất, tẩm màn; cấp thuốc tự điều trị sốt rét, truyền thông giáo dục) và tăng cường các biện pháp phòng chống sốt rét dân di biến động (di cư tự do, đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới), giám sát dịch tễ vùng trọng điểm và giao ban hàng tháng từ dưới lên; ứng dụng có hiệu quả hệ thống phần mềm quản lý sốt rét (MMS) đồng thời với xây dựng hệ thống dự báo dịch sớm, báo cáo sốt rét theo quy định nên các thông tin sốt rét được xử lý và phản hồi kịp thời cho các địa phương khống chế dịch.
 |
Hệ thống phần mềm quản lý sốt rét (MMS) |
Phòng chống véc tơ truyền bệnh:
Hoá chất phun tẩm được cung cấp đầy đủ và kịp thời đảm bảo cho các tỉnh trong khu vực thực hiện tốt chiến dịch phòng chống véc tơ truyền bệnh; chất lượng phun tẩm được nâng cao thông qua việc tăng cường tập huấn và giám sát chuyên môn kỹ thuật cũng như quản lý hóa chất tại các tuyến; giám sát véc tơ truyền bệnh được thực hiện định kỳ hoặc đột xuất ở các vùng nghi ngờ xảy dịch, vùng sốt rét có biến động và các điểm theo dõi thường quy phát hiện muỗi truyền bệnh chính An.dirus chiếm mật độ cao trong khi An.minimus mật độ rất thấp, thậm chí mất hẳn ở hầu khắp các điểm điều tra; xác định nhậy cảm của Anpheles với các hóa chất hiện dùng từ 96-100% và có tác dụng tồn lưu lâu trên các loại tường vách.
Điều trị bệnh nhân sốt rét:
Thuốc sốt rét được cung ứng kịp thời nhưng công tác quản lý sử dụng và thanh quyết toán thuốc còn nhiều khó khăn, một số nơi y tế thôn bản đã được cấp cơ số thuốc để tăng cường điều trị sớm nhưng do năng lực còn hạn chế nên khó nhân rộng. Việc cấp thuốc tự điều trị cho người dân làm ăn xa cơ sở y tế được thực hiện nhưng khó quản lý và khó đánh giá hiệu quả sử dụng; một số tỉnh còn chỉ đạo uống thuốc phòng (Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Kon Tum) trong khi chỉ định này đã được Bộ Y tế bãi bỏ từ năm 2007.
Giám sát điều trị tại các tuyến chất lượng chẩn đoán và điều trị sốt rét chưa cao do ít kinh nghiệm điều trị trong quá trình bệnh nhân sốt rét giảm thấp; hoạt động các điểm kính hiển vi xã chưa hiệu quả, 40% số điểm kính hiển vi thiếu xét nghiệm viên, thậm chí có nguy cơ tan rã ở một số địa phương. Phối hợp thuốc có gốc Artemisinine (ACT) điều trị bệnh nhân sốt rét đã được sử dụng ở tất cả các tuyến theo quy định và đáp ứng 100% với ký sinh trùng sốt rét P.falciparum qua kết quả giám sát kháng thuốc của Viện.
Truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét
Truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét được coi là một trong những biện pháp phòng chống sốt rét chủ yếu và trong năm 2008 được các địa phương thực hiện bằng nhiều hình thức như nói chuyện, phát thanh, thảo luận nhóm; truyền thông trực tiếp tại hộ gia đình, chiếu Video và biểu diễn văn nghệ, phát tranh và tờ rơi. Phối hợp với các tỉnh tổ chức “Hội thi phòng chống sốt rét cho đồng bào thiểu số” vùng sâu, vùng xa đạt hiệu quả thay đổi nhận thức và hành vi phòng chống sốt rét của cộng đồng; tổ chức Lễ phát động công tác truyền thông nhân ngày “Sốt rét thế giới 25-4” lần đầu tiên theo sáng kiến của Tổ chức Y tế thế giới và sản xuất vật liệu truyền thông (băng hình, băng tiếng, tranh lật, tranh lịch…) gắn liền với phong tập tục đồng bào địa phương.
 | |
TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng Viện Sốt rét - | KST-CT Quy Nhơn trình bày báo cáo tại Hội nghị |
Trang tin điện tử (Website) của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn và các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên với tên miền impe-qn.org.vn qua 3,5 năm khai thác (2005-2008) với trên 2.000.000 lượt người truy cập đã phát huy hiệu quả cao trong công tác tuyên truyền phòng chống dịch bệnh cũng như chuyển tải các thông tin cần thiết về lĩnh vực phòng chống sốt rét, các bệnh ký sinh trùng và côn trùng.
Đào tạo và đào tạo lại
Các Viện tiếp tục đào tạo Trung học xét nghiệm hệ chính quy; phối hợp với các Trường Đại học giảng dạy chuyên ngành ký sinh trùng cho các lớp cao học, đại học; phối hợp với các Trường đại học và các Viện nghiên cứu trong nước hướng dẫn sau đại học cung cấp nguồn nhân lực y tế dự phòng quan trọng cho các cơ sở y tế.
Các tỉnh trong khu vực đã tiến hành đào tạo 946 lớp cho 22.990 học viên là cán bộ y tế cơ sở xã, thôn bản, cán bộ điều trị tại bệnh viện, xét nghiệm viên các tuyến nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tại địa phương.
Nghiên cứu khoa học, các đề tài và dự án quốc tế
Các Viện tổ chức nghiệm thu đề tài cấp Bộ, cấp cơ sở, đánh giá tiến độ thực hiện các đề tài đang thực hiện và bảo vệ các đề cương nghiên cứu tiếp theo; thực hiện các đề tài hợp tác quốc tế về dịch tễ, côn trùng, ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, ký sinh trùng đường ruột, lâm sàng và điều trị sốt rét. Các đề tài có giá trị ứng dụng cao góp phần giải quyết các khó khăn đang gặp phải trong phòng chống sốt rét như biện pháp phòng chống sốt rét cho dân di cư tự do, dân đi rừng/ngủ rẫy dài ngày; kiểm soát sự phục hồi véc tơ tại các vùng sốt rét và chỉ định các biện pháp phun tẩm hóa chất phù hợp, đáp ứng của ký sinh trùng sốt rét với các thuốc sốt rét và hiệu quả các phác đồ đang sử dụng trong chương trình phòng chống sốt rét, biện pháp phòng chống bệnh sán lá gan lớn ở các vùng có nguy cơ nhiễm bệnh cao, khu hệ muỗi culicinae và khu hệ ngoại ký sinh trong khu vực; tổ chức sinh hoạt khoa học 3 lần cho cán bộ chuyên môn và học viên cao học, cập nhật thông tin có giá trị về các lĩnh vực chuyên ngành, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cơ bản.
Quản lý vật tư kinh phí phòng chống sốt rét
Tổ chức đấu thầu mua sắm vật tư, hóa chất, thuốc sốt rét cung cấp kịp thời cho các tỉnh trong khu vực theo quy định; cấp bổ sung cho các vùng có nguy cơ xảy dịch và các vùng chịu hậu quả của thiên tai lũ lụt.
Tổ chức kiểm tra, giám sát việc sử dụng kinh phí; phối hợp với Thanh tra Bộ Y tế kiểm tra thuốc sốt rét và vật tư chương trình ở Viện và các tỉnh được kiểm tra đều thực hiện nghiêm túc và sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí được cấp trong năm.
Mục tiêu phòng chống sốt rét năm 2009:
Mục tiêu chung: Tiếp tục đẩy lùi bệnh sốt rét ở các vùng trọng điểm, các vùng sốt rét có nguy cơ xảy dịch cao và phát triển các yếu tố bền vững nhằm ngăn chặn sốt rét quay trở lại.
Mục tiêu cụ thể:
- Giảm chết sốt rét 5% so với 2008, năm 2009 còn 0,030/0000 DSC;
- Giảm mắc sốt rét 5% so với 2007, năm 2008 còn 0,7 0/00 DSC;
- Không để dịch sốt rét xảy ra;
- Đẩy mạnh phát triển các yếu tố bền vững và xã hội hoá phòng chống sốt rét nhằm ngăn chặn sốt rét quay trở lại, duy trì thành quả PCSR lâu dài.
Các chỉ tiêu thực hiện năm 2009:
- Dân số được bảo vệ bằng hóa chất diệt muỗi 10.600.000 người, trong đó:
+ Bảo vệ bằng phun hóa chất tồn lưu: 1.600.000 người
+ Bảo vệ bằng màn tẩm hóa chất: 9.000.000 người
- Số lượt người được điều trị sốt rét: 811.000 người
- Số lam máu phát hiện: 2.500.000 chiếc
Định hướng hoạt động:
Chỉ đạo, giám sát dịch tễ sốt rét:
Tăng cường chỉ đạo và giám sát các vùng trọng điểm sốt rét, không để sốt rét phát triển thành dịch và hạn chế tử vong sốt rét ở các nhóm dân di biến động; dự báo dịch sốt rét kịp thời và nguy cơ sốt rét gia tăng; phân vùng sốt rét và thực hành chỉ đạo biện pháp phòng chống sốt rét phù hợp với giai đoạn hiện nay.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các điểm kính hiển vi, đội y tế lưu động phòng chống sốt rét, y tế cơ sở; kết hợp quân dân y một cách hiệu quả, duy trì giao ban hàng tháng ở cơ sở để nắm bắt tình hình sốt rét và triển khai các biện pháp phòng chống kịp thời, nâng cao chất lượng công tác thống kê báo cáo sốt rét, đảm bảo chính xác và kịp thời, ứng dụng dụng có hiệu quả phần mềm quản lý sốt rét (MMS).
Tổ chức Hội nghị giao ban phòng chống sốt rét, các bệnh ký sinh trùng, côn trùng và “Hội thi Kỹ thuật viên giỏi về ký sinh trùng sốt rét” khu vực miền Trung-Tây Nguyên lần thứ V nhằm nâng cao chất lượng phát hiện tại các tuyến y tế cơ sở.
Giám sát và phòng chống vector:
Chỉ định phun, tẩm hoá chất trên cơ sở phân vùng dịch tễ sốt rét can thiệp đảm bảo độ bao phủ theo kế hoạch được giao; nâng cao chất lượng kỹ thuật phun, tẩm hoá chất bằng cách tập huấn kỹ thuật cho y tế cơ sở, tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng phun, tẩm trong các đợt triển khai chiến dịch.
Tuyên truyền vận động nhân dân nằm màn, đi rừng ngủ rẫy phải mang theo màn nằm để bảo vệ cá nhân; cán bộ côn trùng tuyến tỉnh tiến hành giám sát vector sốt rét ở các vùng trọng điểm, vùng có di biến động dân để có biện pháp xử lý kịp thời, đánh giá tác dụng tồn lưu hoá chất trên màn và trên tường vách ở một số vùng trọng điểm sốt rét; quản lý, sử dụng và bảo quản tốt bình phun, hoá chất diệt muỗi tránh thất thoát, hư hỏng, xử lý bao bì hóa chất đúng quy định.
Giám sát và điều trị sốt rét:
Tăng cường công tác kiểm tra và giám sát điều trị sốt rét ở các tuyến bệnh viện tỉnh, huyện, xã thuộc các vùng sốt rét trọng điểm, cấp thuốc sốt rét tự điều trị đầy đủ cho đối tượng đi rừng, ngủ rẫy khi đi xa cơ sở y tế nhiều ngày, phát hiện sớm và điều trị sốt rét kịp thời cho các nhóm dân di biến động.
Cử đoàn điều trị bệnh sốt rét phối hợp với các tuyến tỉnh, huyện, xã chỉ đạo, giám sát, hỗ trợ nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị sốt rét tại cơ sở để giảm tử vong do sốt rét; nâng cao năng lực các tuyến trong quản lý, sử dụng và phân phối thuốc sốt rét; đảm bảo cung cấp thuốc sốt rét miễn phí đến tận thôn, bản.
Truyền thông giáo dục-xã hội hóa phòng chống sốt rét:
 |
Cần phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của màng lưới truyền thông viên nhằm tuyên truyền, giải thích cách phòng chống bệnh sốt rét ở các vùng trọng điểm sốt rét, vùng sâu vùng xa. (ảnh st) |
Nâng cao chất lượng truyền thông giáo dục, lựa chọn kênh truyền thông phù hợp và có hiệu quả cho từng đối tượng nhằm gia tăng tỷ lệ ngủ màn; tiếp tục khai thác có hiệu quả Website như một kênh truyền thông của Viện để giúp cho cộng đồng tiếp cận với các thông tin cần thiết trong lĩnh vực chuyên ngành.
Phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của màng lưới truyền thông viên, cung cấp các tài liệu, tranh, ảnh, băng cassette, video PCSR phù hợp với từng địa phương; kết hợp có hiệu quả với các ban, ngành, đoàn thể để phát động các đợt chiến dịch truyền thông giáo dục về PCSR; mở rộng hình thức truyền thông Hội thi kiến thức PCSR và truyền hình trực tuyến hỏi đáp về PCSR ở các vùng trọng điểm sốt rét, vùng sâu, xa.
Nâng cao chất lượng đào tạo và đào tạo lại về phòng chống sốt rét:
Đào tạo các lớp kỹ thuật viên trung cấp hệ chính quy và không chính quy, phối hợp đào tạo cao học chuyên ngành ký sinh trùng tại Viện với các trường đại học; mở rộng đào tạo đa khoa Kỹ thuật viên trung học tại Viện và phối hợp với các trường đại học đào tạo đại học, sau đại học và đào tạo nâng cao năng lực phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng cho các tỉnh trong khu vực.
Đào tạo lại về dịch tễ, côn trùng, xét nghiệm KSTSR và điều trị sốt rét cho các tuyến; tổ chức Hội thi Kỹ thuật viên giỏi về xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét cho các tỉnh khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Nghiên cứu khoa học, công nghệ thông tin và hợp tác quốc tế:
Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp cơ sở và hợp tác quốc tế tập trung vào các biện pháp phòng chống sốt rét cho dân di cư tự do, đi rừng/ngủ rẫy; giám sát hiệu lực thuốc sốt rét và ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, giám sát vector và các biện pháp phòng chống, sự phân bố và vai trò truyền bệnh sốt rét của An.minimus, An.dirus ở các vùng có biến động sốt rét gia tăng; miễn dịch sốt rét và chỉ số huyết học trong cộng đồng sống ở vùng sốt rét lưu hành; nghiên cứu giải mã hệ gen ty thể của các loài sán lá gan nhỏ, mô hình phòng chống bệnh sán lá gan lớn.
Chỉ đạo thực hiện tốt Dự án Quỹ toàn cầu PCSR gắn liền với mục tiêu chương trình quốc gia phòng chống sốt rét để đảm bảo nguồn lực đầu tư của Dự án đạt hiệu quả mong muốn và đẩy lùi bệnh sốt rét vững chắc ở các vùng trọng điểm.
Xây dựng mô hình thí điểm lồng ghép phòng chống các bệnh do véc tơ truyền (sốt rét & sốt xuất huyết) về phát hiện, quản lý và điều trị các trường hợp nhiễm bệnh thông qua màng lưới y tế cơ sở để qua đó rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm soát dịch bệnh cho các tuyến, đặc biệt là Trung tâm Y tế dự phòng tuyến huyện. Phối hợp chặt chẽ với các Viện Vệ sinh dịch tễ/Viện Pasteur và Trung tâm Y tế dự phòng các tỉnh thực hiện tốt Dự án phòng chống sốt xuất huyết quốc gia trong khuôn khổ được Ban Điều hành dự án Trung ương phân công, nhất là kiểm soát véc tơ truyền bệnh sốt xuất huyết tại các tỉnh trọng điểm trong khu vực.
Hợp tác với Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và các tổ chức quốc tế khác nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu trong phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng.
 |
 |
Trao cờ và bằng khen cho các đơn vị có thành tích xuất sắc trong công tác phòng chống sốt rét năm 2008. |
Quản lý thuốc sốt rét, hoá chất, vật tư, kinh phí PCSR:
Cung cấp đầy đủ và kịp thời thuốc sốt rét, hóa chất phun tẩm và vật tư phòng chống sốt rét để các tỉnh trong khu vực triển khai đúng thời điểm; kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc quản lý và sử dụng vật tư, kinh phí được cấp ở các tuyến để đảm bảo nguồn lực đầu tư phòng chống sốt rét có hiệu quả cao.
Thực hiện tốt công tác quản lý và báo cáo vật tư kinh phí theo qui định của Dự án Quốc gia PCSR: báo cáo quyết toán thuốc, hoá chất và vật tư đúng hạn, sử dụng đúng kinh phí được cấp, không để thuốc sốt rét, hoá chất quá hạn, kém phẩm chất hoặc thất thoát.
Xây dựng kế hoạch PCSR hàng năm từ địa phương sát với nhu cầu thực tế, tránh thiếu, thừa gây lãng phí và đảm bảo gửi kế hoạch PCSR hàng năm đúng thời gian qui định; thực hiện tốt việc quản lý, sử dụng vật tư, kinh phí đã được cấp.