Một vài định nghĩa liên quan
Định nghĩa về tác dụng phụ của thuốc (Side effects)
Các tác dụng phụ (side effects) là những vấn đề xảy ra khi đến sau điều trị bắt đầu nghĩa là những tác dụng mà đi sau hiệu quả mong đợi. Hoặc những vấn đề xảy ra thêm trong quá trình trị liệu. Các nhà sản xuất thuốc đòi hỏi một danh mục về các tác dụng đã biết của sản phẩm thuốc. Khi các tác dụng của các thuốc thiết yếu là nghiêm trọng, đôi khi còn có thuốc thứ 2, thay đổi lối sống, thay đỏi chế độ ăn uống, hoặc các biện pháp khác để giúp hạn chế tối đa chúng. Ví dụ một trường hợp xuất huyết do sử dụng quá nhiều thuốc chống đông (như heparin) là một tác dụng phụ gây ra do điều trị mà trước đó chúng ta cần hiệu quả mong đợi. Hoặc các tác dụng phụ thường gặp trong điều trị ung thư bao gồm suy nhược, buồn nôn, nôn mửa, giảm tế bào máu, rụng tóc, loét miệng, họng là các tác dụng phụ xảy ra bên cạnh các hiệu quả điều trị mong đợi.
Một tác dụng phụ thường nghĩ đến và xem như một hiệu ứng thứ phát xảy ra ngoài tác dụng điều trị mong muốn của thuốc đó. Tác dụng phụ có thể khác nhau tùy thuộc vào mỗi cá nhân và lệ thuộc vào từng tình trạng bệnh của mỗi người, tuổi, cân nặng, giới, dân tộc và sức khỏe chung. Tác dụng phụ có thể xảy ra khi mới bắt đầu, khi tăng/ giảm liều dùng của thuốc hoặc khi kết thúc liệu trình dùng thuốc. Tác dụng phụ có thể dẫn đến các dấu hiệu không hài lòng với kê đơn. Khi tác dụng phụ của một thuốc nghiêm trọng, liều dùng có thể điều chỉnh hoặc thuốc thứ 2 có thể lựa chọn kê đơn. Cuộc sống và các thay đổi chế độ ăn uống có thể giúp hạn chế tối thiểu tác dụng phụ.
Định nghĩa về tác dụng có hại của thuốc (Adverse events)
Các tác dụng có hại (Adverse event) là bất kỳ một thay đổi nào có hại đến sức khỏe hoặc tác dụng phụ xảy ra trên các đối tượng tham gia vào một thử nghiệm lâm sàng trong khi bệnh nhân dùng thuốc điều trị (thuốc nghiên cứu, các thủ thuật hoặc công cụ y tế dùng trong nghiên cứu đó) hoặc trong một giai đoạn đặc biệt sau khi điều trị kết thúc.
AEs trên bệnh nhân tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng phải được báo cáo cho hội đồng chuyên môn về thuốc (Institutional review board-IRB) và nhà tài trợ nghiên cứu. Các phản ứng óc hại được phân loại như “nghiêm trọng” (chẳng hạn chết, bệnh đòi hỏi phải nhập viện, các dữ liệu nghĩ rằng sẽ đe dọa tính mạng, hoặc liên quan đến un thư hoặc tử vong do phơi nhiễm với thuốc đó cần phải báo cáo một cách thường quy cho cơ quan chức năng có trách nhiệm ngay lập tức, ngược lại các phản ứng có hại nhẹ chỉ trình bày đơn thuần trong bản tóm tắt hằng năm gởi dến cho cơ quan chức năng.
Nhà tài trợ sẽ thu thập các báo cáo AE từ các nhà nghiên cứu từng địa phương và rồi báo cáo chia sẻ cho các địa phương khác về các AEs, cũng như cho các nhà điều tra địa phương và quyết định của nhà tài trợ về các phản ứng phụ nghiêm trọng. Tiến trình này cho phép nhà tài trợ và tất cả thành tra địa phương tiếp cận một bộ dữ liệu về các vấn đề tiềm tàng liên quan đến điều trị nghiên cứu trong khi nghiên cứu vẫn còn đang tiến hành.
Các phản ứng phụ của thuốc
Phản ứng phụ của thuốc là những tổn thương hoặc những đáp ứng không mong muốn đối với một loại thuốc được dùng với mục đích điều trị. Các phản ứng này không chỉ gây ra các biểu hiện có hại cho người bệnh mà còn có thể ảnh hưởng đến chất lượng điều trị và tiên lượng bệnh.
Phản ứng phụ do thuốc có nhiều dạng khác nhau, phổ biến nhất là các tác dụng phụ liên quan đến tác dụng dược lý của thuốc, biểu hiện dị ứng thuốc, nhiễm độc và tương tác thuốc. Phản ứng phụ thường xảy ra do dùng thuốc không đúng chỉ định, không đúng liều hoặc không đúng cách nhưng có thể xảy ra ngay cả khi dùng thuốc đúng. Mặc dù hầu hết các phản ứng phụ do thuốc gây ra do các loại thuốc kê đơn như kháng sinh, thuốc hạ huyết áp, lợi tiểu, thuốc giãn phế quản, thuốc chống viêm giảm đau..., nhưng cũng có thể gặp do các thuốc bán không cần đơn, thuốc bổ, vitamin và thuốc thảo dược.
Một phản ứng thuốc xảy ra được coi là có hại nếu nó đòi hỏi phải có sự thay đổi trong điều trị (bao gồm cả việc phải ngưng thuốc hoặc giảm liều thuốc), yêu cầu nhập viện hoặc kéo dài thời gian nằm viện. Điều đáng lưu ý là mọi loại thuốc đều không chỉ có một tác dụng và đều có nguy cơ gây ra các phản ứng phụ, cũng không có loại thuốc nào thực sự an toàn. Một số phản ứng phụ do thuốc có thể phòng tránh được, trong khi một số loại khác thì không thể. Những phản ứng phụ có thể phòng tránh thường là những phản ứng gây ra do các sai lầm trong việc sử dụng thuốc, từ việc ra y lệnh đến phân phối và thực hiện dùng thuốc. Những tác dụng dược lý thứ phát có thể dự đoán trước của thuốc thường không thể phòng tránh được. Ví dụ, các thuốc kháng histamin thế hệ cũ dùng trong điều trị các bệnh dị ứng thường gây biểu hiện ngầy ngật, buồn ngủ, khô mắt khô miệng, những tác dụng phụ này hoàn toàn có thể dự báo trước nhưng không thể phòng tránh được. Một loại thuốc dù được biết trước có thể gây ra các tác dụng phụ nhưng vẫn có thể được sử dụng nếu người thầy thuốc thấy lợi ích của thuốc là lớn hơn so với nguy cơ. Dạng tác dụng phụ này thường được ghi nhận không đầy đủ do chúng thường nhẹ và các thầy thuốc đã biết trước sự xuất hiện của chúng.
Nguy cơ xảy ra các phản ứng phụ của thuốc tăng song song với số lượng thuốc mà người bệnh sử dụng. Những người lớn tuổi thường có nguy cơ cao phải chịu các phản ứng phụ của thuốc do đây là nhóm đối tượng thường mắc cùng lúc nhiều bệnh nên phải sử dụng đồng thời nhiều loại thuốc và khả năng chuyển hóa và đào thải thuốc bị giảm sút do suy giảm chức năng gan thận. Các nhóm thuốc thường gây ra các phản ứng phụ ở người lớn tuổi là nhóm benzodiazepine tác dụng kéo dài, các thuốc chống viêm giảm đau, thuốc chống đông máu, thuốc lợi tiểu thiazide, các thuốc chống lao, thuốc chống ung thư và thuốc chữa loạn nhịp tim.
Các phản ứng dị ứng chiếm khoảng 10% tổng số các phản ứng phụ do thuốc, đây là những phản ứng gây ra theo cơ chế miễn dịch, do thuốc kích hoạt hệ thống miễn dịch của cơ thể sản xuất ra các kháng thể dị ứng IgE, nguyên nhân thường gặp nhất là do các thuốc kháng sinh. Phản ứng dị ứng do thuốc thường chỉ xảy ra khi người bệnh tiếp xúc với thuốc từ lần thứ 2 trở đi và càng những lần tiếp xúc sau thì mức độ dị ứng càng nặng. Biểu hiện dị ứng có thể từ mức độ nhẹ như nổi mày đay, sẩn ngứa đến mức độ nguy hiểm, đe dọa tính mạng như sốc phản vệ, hội chứng Lyell...
Các phản ứng phụ không liên quan đến cơ chế miễn dịch bao gồm biểu hiện không dung nạp thuốc, nhiễm độc thuốc, tương tác thuốc, tác dụng thứ phát và phản ứng đặc ứng do thuốc. Biểu hiện không dung nạp gây ra do sự quá nhạy cảm của cơ thể với các tác dụng dược lý thông thường của thuốc, xảy ra ngay cả khi đã giảm liều thuốc. Một số tác dụng phụ của thuốc có thể gây ra các hậu quả thứ phát cho người bệnh, ví dụ như các loại glucocorticoid gây suy giảm khả năng miễn dịch khiến người bệnh dễ mắc các loại nhiễm trùng như lao, virut herpes... Đôi khi, tác dụng thứ phát lại đem đến lợi ích cho người bệnh, ví dụ như paracetamol được dùng với mục đích hạ sốt nhưng lại có thêm tác dụng giảm đau. Phản ứng nhiễm độc hoặc quá liều xảy ra khi người bệnh sử dụng liều thuốc quá cao so với khả năng đào thải và chuyển hóa thuốc của cơ thể. Người lớn tuổi thường có nguy cơ cao bị các phản ứng nhiễm độc.
Tương tác thuốc xảy ra khi có sự tương tác giữa 2 hoặc nhiều loại thuốc được sử dụng đồng thời dẫn đến thay đổi hiệu quả điều trị hoặc độc tính của một hoặc nhiều loại thuốc. Lưu ý là các loại thuốc bổ và thực phẩm cũng có thể tương tác với thuốc. Cuối cùng là các phản ứng đặc ứng do thuốc, đây là những phản ứng tương đối hiếm gặp, xảy ra do những bất thường mang tính di truyền trong khả năng chuyển hóa thuốc của cơ thể. Ví dụ, do những biến đổi về di truyền, một số bệnh nhân có thể chuyển hóa một vài loại thuốc quá nhanh hoặc quá chậm, làm tăng nguy cơ nhiễm độc hoặc gây thất bại điều trị.
Các phản ứng phụ do thuốc, tùy từng dạng khác nhau, có thể nhẹ, thoáng qua và khó phát hiện nhưng cũng có thể rất nặng nề, đe dọa tính mạng hoặc gây tàn phế cho người bệnh, có thể biểu hiện tại chỗ hoặc toàn thân. Năm hệ cơ quan bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các tác dụng phụ của thuốc là hệ da niêm mạc, hệ thần kinh trung ương, hệ tiêu hóa, hệ tim mạch và các giác quan
Các hình thái hay dạng tác dụng có hại
Tất cả thử nghiệm lâm sàng đều có nguy cơ tiềm tàng sinh ra các phản ứng có hại của thuốc (Aes). Các AEs được phân loại từ nhẹ đến nghiêm trọng, từ có hoặc không mong đợi; và liên quan đến nghiên cứu hoặc chắc chắn có liên quan đến nghiên cứu hoặc không đề cập trong nghiên cứu. Chẳng hạn, trong một nghiên cứu mà các thử nghiệm về hiệu quả của một cách đo huyết áp mới trong thời gian 10 phút dường như vô thưởng vô phạt, song khả năng để lại vết ngứa trên da bệnh nhân là có thể do nén ép thời gian dài của dụng cụ đo huyết áp. Các bệnh nhân trong nghiên cứu đó cũng có thể chết trong thời gian 10 phút. Sự kích thích da và chết đột ngột có thể xem như là các AEs. Trong trường hợp kích thích da có thể phân loại không nghiêm trọng, không mong đợi (unexpected) và có thể chắc chắn liên quan đến nghiên cứu. Chết có thể phân loại vào nghiêm trọng và AEs không mong đợi (trừ khi bệnh nhân có “cửa chết”). Các nhà nghiên cứu sẽ sử dụng các điều đánh giá của chính họ để xác định có hay không tử vong liên quan đến dụng cụ nghiên cứu.
Cả sự kích thích da và tử vong đều là các dữ kiện không mong đợi và nên cảnh báo coh các nhà nghiên cứu tồn tích tiềm tàng của vấn đề về dụng cụ y khoa này (chẳng hạn, chúng có thể gây sai chức năng và gây sốc cho bệnh nhân). Các nhà nghiên cứu nên báo cáo các AEs này cho IRB địa phương và với nhà tài trợ, đợi chỉ dẫn và dừng nghiên cứu.
Nếu các nhà nghiên cứu cảm thấy có một mối nguy hiểm sắp xảy ra do dụng cụ, họ có thể sử dụng các quyết định để dừng bệnh nhân không cho tham gia nghiên cứu. Một phản ứng có hại cũng có thể thông báo trong điều trị thông thường trên một bệnh nhân nghi ngờ do thuốc dùng hoặc dụng cụ y khoa sử dụng trong quá trình trị liệu cho bệnh nhân.
Tại Australia, thuật ngữ “Adverse event” ám chỉ đến các lỗi y học đến tất cả các loại phẩu thuật, thuốc và điều dưỡng chăm sóc liên quan. Các nghiên cứu chính thống sẵn có gần đây chỉ ra 18.000 ca tử vong mỗi năm là od chăm sóc tại bệnh viện. Nhóm hành động và nghiên cứu về lỗi y khoa (Medical Error Action Group) đang trong xây dựng điều luật để nâng cao báo cáo về AEs và kiêm tra chất lượng, hạn chế tối đa các ca tử vong không đáng có.
Cơ sở dữ liệu về phản ứng có hại (Database of adverse events)
Cơ quan Quản lý Thực dược phẩm của Mỹ (FDA) cung cấp một ocw sở dữ liệu về các phản ứng có hại gọi chung là bộ “Manufacturer and User Facility Device Experience Database. (MAUDE)”. Dữ liệu bao gồm các báo cáo tự phát kể từ tháng 6 năm 1993, công cụ hỗ trợ có từ năm 1991 và các báo cáo của các nhà sản xuất bắt đầu từ tháng 8 năm 1996 và đăng tải.
Trong y khoa, một phản ứng có hại là một hiệu ứng không mong muốn hoặc hiệu ứng có hại từ sự cho thuốc hoặc can thiệp điều trị như phẩu thuật. Một AE có thể dùng bởi thuật ngữ như tác dụng phụ ("side effect") khi phân xử là thứ phát đối với một liệu pháp điều trị chính hoặc liêu pháp điều trị mong đợi. Điều này có thể dẫn đến từ một quy trình hoặc chỉ định liều dùng sai à dẫn đến sai lỗi trong y khoa. Các AEs đôi khi xem như là một bệnh do điều trị gây nên (“iatrogenic") vì chúng gây ra bởi lỗi thầy thuốc. Một số AEs chỉ xảy ra khi mới bắt đầu, tăng liều hoặc đã chấm dứt điều trị. Dùng một thuốc hoặc một biện pháp can thiệp y học khác bị chống chỉ định có thể làm tăng nguy cơ AEs. Các AEs có thể gây biến chứng y khoa của bệnh hoặc liên quan đến tiên lượng bệnh. Chúng có thể dẫn đến không tương thích với một quá trình điều trị.
Các kết quả có hại thường chỉ ra do mọt số kết quả như tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tử vong, thayđổi về trọng lượng cơ thể, nồng độ enzyme, mất chức năng, thay đổi về bệnh học phát hiện qua kính hiển vi hoặc về mặt vi thể cũng như đại thể hoặc mức độ sinh lý. Nó cũng chỉ ra bởi một triệu chứng báo cóa do bệnh nhân. Các AEs có thể thay đổi hoặc không thay đổi, gồm có tăng hoặc giảm tính nhạy cảm của cá nhân với các thuốc, hóa chất, thức ăn và thủ thuật cũng như vấn đề tương tác thuốc.
Trong các thử nghiệm lâm sàng, một sự phân biệt với các phản ứng có hại của thuốc (adverse events_AEs) và các các phản ứng óc hại nghiêm trọng (serious adverse events_SAEs). Nói chung, bất kỳ một dữ liệu nào gây tử vong, tổn thương trường diễn, khuyết tật bẩm sinh hoặc phải cần đến nhập viện vì SAE. Kết quả của các thử nghiệm lâm sàng này thường gồm ghi nhãn của thuốc và cung cấp các thông tin cho cả bệnh nhân và thầy thuốc kê đơn.
Hệ thống báo cáo AEs (Reporting systems)
Tại nhiều quốc gia, các AEs đòi hỏi theo luật là báo cáo. Nghiên cứu trong thử nghiệm lâm sàng gồm thông tin bệnh nhân đi kèm với các dụng cụ y khoa và thuốc dùng.
Tại Vương quốc Anh
Theo mẫu thẻ vàng (Yellow Card Scheme) là sáng kiến của Vương quốc Anh tiến hành bởi cơ quan Medicines and Healthcare products Regulatory Agency (MHRA) và hôi đồng Commission on Human Medicines (CHM) để tập hợp các thông tin về AEs của thuốc. Điều này bao gồm tất cả các thuốc cấp phép, từ các thuốc được phép kê đơn và bán ra thị trường. Sự phối hợp này bao gồm tất cả các chế phẩm thảo dược và các thuốc chưa cấp phép tìm thấy trong lĩnh vực điều trị thẩm mỹ. Các pahnr ứng có hại của thuốc (ADRs) có thể được báo cáo bởi một số chuyên gia chăm sóc y tế bao gồm các thày thuốc, các dược sĩ và y tá cũng như bệnh nhân. Để thông tin thêm có thể xem trang tin của Yellow Card Scheme hoặc tìm các bản sao của Yellow Card trên phụ lục của BNF. Để đọc báo cáo từ Yellow Card Scheme của Vương quốc Anh, bạn có thể tải ở đây.
Tại Mỹ
Tại Mỹ, một số hệ thống báo cáo đã thiết lập như là Vaccine Adverse Event Reporting System (VAERS), Manufacturer and User Facility Device Experience Database (MAUDE) và Special Nutritionals Adverse Event Monitoring System. MedWatch là trung tâm báo cáo chính vận hành theo quy trình FDA.
Tại Australia
Tại Úc, các báo cáo AEs cho bởi hội đồng Adverse Drug Reactions Advisory Committee (ADRAC), một hôi đồng cấp dưới của Australian Drug Evaluation Committee (ADEC). Báo cáo là tự nguyện và ADRAC yêu cầu các chuyên gia y tế báo cáo các tác dụng phụ đối với các thuốc đang dùng và các SAE đối với bất kỳ loại thuốc nào. ADRAC đăng tải trên chuyên san AustralianAdverse Drug Reactions Bulletin mỗi lần hai tháng. Chương trình Government's Quality Use of Medicines có nhiệm vụ hoạt động báo cáo đẻ làm giảm tối thiểu con số AE mà có thể phòng tránh được mỗi năm.
Tại New Zealand
Hệ thống báo cáo AE là một bộ phận quan trọng của các hoạt động dược cảnh giác của New Zealand. Trung tâm giám sát phản ứng có hại (Centre for Adverse Reactions Monitoring_CARM) ở Dunedin là một trung tâm giám sát quốc gia của New Zealand về mặt tác dụng phụ. Trung tâm này thu thập và đánh giá các báo cáo tự phát về tác dụng ngoại ý của thuốc, vaccine, thảo dược và thực phẩm chức năng từ các chuyên gia y tế tại New Zealand. Hiện tại, cơ sở dữ liệu của CARM giũ khoang 80.000 báo cáo và cung cấp cho hệ thông tin của New Zealand về AEs cho các sản phẩm này và đóng vai trò quan trọng hỗ trợ về mặt lâm sàng khi các triệu chứng bất thường xuất hiện có liên quan đến điều trị.
Các tác dụng ngoại ý thuộc quy trình cho thuốc
Phẩu thuật có thể óc một số hiệu ứng không mong muốn thậm chí gây hại, như nhiễm trùng xuất huyết, viêm nhiễm, loét, mất chức năng, thay đổi huyết động,…Chúng óc thể đảo ngược hoặc không có nghĩa là phục hồi hoặc không và sự thỏa hiệp giữa thầy thuốc và bệnh nhân về lợi ích cũng như kết quả cứu sống bệnh nhân do phẩu thuật hoặc ngược lại có những tác dụng có hại cho bệnh nhân cũng được bàn luận.
Chẳng hạn, một chi có thể cắt cụt trong trường hợp hoại tử không thể điều trị được nhưng tính mạng của bệnh nhâncó thể cứu sống. Hiện thời, một trong những lợi ích lớn nhất của han chế phẩu thuật xâm lấn là có thể áp dụng phẩu thuật nội soi để làm giảm các tác dụng phụ hoặc tác dụng có hại tối thiểu.
Các quy trình điều trị không phẩu thuật như liệu pháp xạ trị cao tần gây bỏng và làm thay đổi đặc tính của da.Nói chung, các liệu pháp này có gắng tránh tổn thương cho mô lành trong quá trình điều trị là tốt nhất. Tiêm vaccine có các phản ứng óc hại do bản chất của vaccine vè mặt chế phẩm sinh học, đôi khi đã sử dụng loại vaccine giảm độc lực và độc tố. Các phản ứng óc hại thường gặp có thể là sốt, mệt mỏi, phản ứng tại chỗ tiêm vaccine. Rất hiếm gặp các phản ứng có hại nghiêm trọng như eczema, hay biến chứng tử vong có thể dẫn đến hình ảnh eczema hoặc viêm da atopic.
Các thủ thuật chẩn đoán cũng óc thể gây phản ứng có hại, tùy thuộc vào sự xâm lấn nhiều hay ít, có xâm lấn hay không.Chẳng hạn, phản ứng dị ứng với các chất cản quang thường xảy ra và nội soi đại tràng có thể gây loét thủng thành ruột.
Các phản ứng ngoại ý do thuốc
Các phản ứng có hại của thuốc có thể xảy ra như một hiệu ứng song song hoặc tác dụng phụ của nhiều can thiệp, nhưng chúng đặc biệt quan trọng về mặt dược học, do chúng được sử dụng rộng rãi, đôi khi không thể kiểm soát hết được, sử dụng bằng cách tự dùng thuốc. Do đó,, vấn đề trách nhiệm thuốc là vấn đề quan trọng đề cập ở đây. Các phản ứng có hại, giống như các thuốc khác - là một chức năng liều hoặc mức độ thuốc đi vào cơ quan đích. Vì thế chúng nên tránh hoặc giảm bằng cách thận trọng và lưu ý đến dược lực học, thay đổi nồng độ thuốc trong thời gian cho thuốc.
Các phản ứng có hại cũng có thể gây ra bởi các trương tác thuốc (drug interaction). Điều này thường xảy ra khi bệnh nhân không thông báo cho bác sĩ và các dược sĩ biết các loại thuốc mà họ đang dùng đồng thời, kể cả thảo dược và thực phẩm chức năng. Thuốc mới có thể tương tác đối kháng hoặc tương phản (agonistically or antagonistically) đã khiến cho hiệu quả điều trị mong đợi giảm đi hoặc tiềm tàng. Tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong có ý nghĩa trên thế giới là do liên quan đến điều này.
Tương tác giữa thuốc với thuốc hoặc giữa thuốc với thức ăn (Drug-drug and food-drug interactions) có thể xảy ra và gọi là “natural drugs" dùng phổ biến trong thuốc thay thế có thể có hiệu ứng có hại nguy hiểm. Chẳng hạn, chất chiết xuất của ủ nha trước khi lên men bia rượu của St John' (Hypericum perforatum), một liệu pháp thực vật sử dụng để điều trị trầm cảm nhẹ được biết là óc gây tăng các enzyme cytochrome P450 mà enzyme này chịu trách nhiệm cho quá trình chuyển hóa và đào thải nhiều loại thuốc, vì thế các bệnh nhân uống nó có thể có tình trạng giảm nồng độ thuốc trong máu khi dùng với mục đích khác, như là liệu pháp chống ung thư, chất ức chế protease cho HIV và thuốc ngừa thai dạng hormone.
Về khía cạnh khoa học của hoạt tính có liên quan với tính an toàn thuốc đang gia tăng do các điều luật của chính phủ và là mối quan tâm lớn của y tế công cộng cũng như các nhà sản xuất thuốc. Sự khác biệt giữa tác dụng có hại và không có hại là một khía cạnh thực hành quan trọng khi một thuốc mới đưa ra thử nghiệm trước khi đưa ra thị trường. Điều này được làm trong các nghiên cứu độc tính để xác định các hieuj ứng không gây hại (non-adverse effect level_NOAEL). Các nghiên cứu này đã sử dụng xác định liều dùng thử nghiệm trên người (phase I) cũng như tính toán tối đa liều hàng ngày.
Sự không hoàn chỉnh trong các thử nghiệm lâm sàng, như là só bệnh nhân không đủ nghiên cứu trong một thời gian theo dõi ngắn, đôi khi dẫn đến “thảm họa” cho y tế cộng đồng như thuốc fenfluramine (gọi là fen-phen episode), thalidomide và gần đây hơn có thuốc cerivastatin (Baycol, Lipobay) và rofecoxib (Vioxx), có phản ứng có hại nghiêm trọng được báo cáo giống như sinh quái thai, tăng áp động mạch phổi, đột quỵ, bệnh tim, bệnh lý thần kinh,…và một số tử vong đáng kể khác à dẫn đến việc rút thuốc đó ra khỏi thị trường dược phẩm.
Hầu hết các thuốc có một danh mục các tác dụng có hại từ nhẹ đếnkhông nặng dài mà điều này không can dự vào trong quá trình dùng thuốc. Các phản ứng có hại này có tỷ lệ thay đổi theo từng mức độ nhạy cảm của mỗi cá nhân. Chúng gồm các triệu chứng như buồn nôn, chóng mặt, tiêu chảy, nôn mửa, nhức đầu, viêm da, khô miệng,…Điều này có thể xem như một dạng phản ứng dị ứng giả (pseudo-allergic reaction), cũng như không phải tất cả những người sử dụng đều có phản ứng này.
Các tranh luận xung quanh vấn đề tác dụng ngoại ý
Đôi khi một số phản ứng có hại y khoa giả định có thể được xem là đang tranh luận và nói chung được thảo luận sôi nổi về mặt xã hội lẫn các vụ kiện với các nhà sản xuất thuốc. Mọt ví dụ cho thấy các tranh luận gần đây liên quan giữa các hội chứng tâm thần quan trọng liên quan đến vaccine MMR (hoặc bởi thiomersal, biện pháp bảo quản dựa có thành phần thủy ngân cho một số vaccine). Không có liên kết nào tìm thấy có liên quan trong các nghiên cứu quy mô lớn và không thay đổi tỷ lệ các hội chứng thần kinh nghiêm trọng đã xảy ra khi chất thimerosal loại khỏi các vaccine cách nay 1 thập niên tại Canada và châu Âu.
Trường hợp khác là các phản ứng có hại tiềm tàng như cấy vào ngực chất silicone, dẫn đến hàng trăm ngàn sự kiện chống lại nhà sản xuất ra sản phẩm chứa gel này (gel-based implants), do họ vịn vào cớ tổn thương hệ thống miễn dịch chưa kết luận rõ ràng.
Do các tác động quá mức của y tế công cộng trong việc sử dụng thuốc một cách rông rãi, như là các thuốc ngừa thai và liệu pháp hormone thay thế, có thể dẫn đến hàng triệu người sử dụng bị ảnh hưởng, có thể biểu hiện không hề gì cũng óc thể dẫn đến nặng như ung thư vú, dẫn đếnsự phản đối kịch liệtcủa công chúng và thay đổi liệu pháp y khoa khác nhau, mặc dù lợi ích của chúng lớn hơn nhiều so với nguy cơ.
Một số hạn chế về báo cáo phản ứng có hại do thuốc
Về nguyên tắc, chuyên gia y khoa cần nắm bắt tất cả phản ứng có hại của liệu pháp thuốc đang dùng cho bệnh nhân. Về mặt thực hành, đó chính là sự thận trọng trong nghề nghiệp để xác định có hay không các dữ kiện y khoa có liên quan đến liệu pháp. Chẳng hạn, gãy chân trong một tai nạn trượt tuyết ở một bệnh nhân có tuổi trước khi uống kháng sinh điều trị viêm phổi vẫn chưa thể báo cáo đó là phản ứng có hại của thuốc.
Như một tất yếu, các phản ứng phụ thường quy đang được báo cáo có thể không bao gồm các phản ứng phụ mơ hồ hoặc lâu dài mà chúng có thể tác động làm ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Phần khó khăn để xác định lý do phàn nàn. Một dữ kiện đau đầu trên một bệnh nhân dùng thuốc cúm có thể có bệnh lý nền và có lẽ cũng gây nên trùng triệu chứng như các phản ứng phụ. Trên các bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, cái chết dường như là kết thúc và cái chết có thể do thuốc hoặc do bệnh nặng cuối cùng nhưng người ngoài cuộc đôi khi khó phân định.
Một số ví dụ về phản ứng có hại (adverse effects) liên quan đến thuốc đặc biệt
-Sẩy thai, sinh non hoặc xuất huyết tử cung liên quan đến misoprostol (Cytotec), một thuốc cho sinh (đây là trường hợp mà tác dụng có hại sử dụng cho thai ra hợp pháp hoặc không hợp pháp);
-Nghiện với các thuốc gây ngủ hoặc thuốc giảm đau, như diazepam, morphine;
-Khuyết tật sinh do Thalidomide và Isotretinoin (Accutane);
-Xuất huyết tiêu hóa liên quan đến liệu pháp aspirin;
-Bệnh lý tim mạch liên quan đến chất ức chế COX-2 (Vioxx);
-Điếc và suy thận liên quan đến việc dùng kháng sinh gentamicin;
-Điếc sau khi khi dùng thuốc an thần gây ngủtrên trẻ em loại propofol (Diprivan);
-Chứng mất trí liên quan đến phẩu thuật bắc cầu động mạch vành;
-Trầm cảm hoặc tổn thương gan do dùng interferon;
-Tiểu đường gây ra do dùng các thuốc chống loại thần (neuroleptic psychiatric drugs);
-Tiêu chảy do dùng các thuốc nhóm Orlistat (Xenical);
-Erectile dysfunction associated with many drugs, such as antidepressants
-Sốt liên quan đến tiêm vaccine trước đây vaccine sản xuất không hoàn hảo như vaccine Bacillus Calmette-Guérin (BCG) và bệnh bại liệt;
-Tăng nhãn áp hay glaucoma liên quan đến dùng thuốc nhỏ mắt có corticosteroidé;
-Rụng tóc và thiếu máu có thể do dùng các thuốc liệu pháp chống ung thư bạch cầu;
-Nhức đầu sau khi gây tê hoặc gây mê tủy sống;
-Tăng huyết áp do sử dụng chất ephedrine, theo nhắc nhở của cơ quan FDA loại bỏ tình trạng bổ sung trong thức ăn các chất chiết suất có ephedrae;
-Mất ngủ do các chất kích thích, methylphenidate (Ritalin), Adderall;
-Toan chuyển hóa do sử dụng thuốc Stavudine (Zerit dùng trong liệu pháp chống HIV) hoặc metformin (cho bệnh đái tháo đường);
-Tổn thương gan do dùng paracetamol;
-Da đòi mồi (melasma) và thuyên tắc mạch liên quan đến dùng các thuốc ngừa thái chứa estrogen như viên thuốc tránh thai đường uống;
-Chứng cương dương vật do sử dụng thuốc sildenafil;
-Hoại tử cơ vân liên quan đến nhóm thuốc statins (thuốc chống hay hạ mỡ trong máu);
-Co giật gây ra bởi liệu pháp thuốc benzodiazepines chấm dứt đột ngột;
-Buồn ngủ hoặc tăng thèm ăn do dùng các thuốc kháng histamine. Một số thuốc kháng histamine hõ trợ ngủ thì chúng gây buồn ngủ;
-Đột quỵ hoặc cơn nhồi máu cơ tim liên quan đến sildenafil (Viagra), khi dùng với thuốc nitroglycerin
-Tự tử có xu hướng tăng liên quan đến sử dụng fluoxetine và các chất chống trầm cảm ức chế tái nạp seretonine chọn lọc;
-Chứng rối loạn thần kinh mạn tính liên quan đến việc sử dụng lâu dài metoclopramide và nhiều thuốc chống loạn thần khác;
Tham khảo thêm một số chuyên tin liên quan đến phản ứng hoặc tác dụng phụ của thuốc
·Biosafety
·Classification of Pharmaco-Therapeutic Referrals
·Complication (medicine)
·Consultant pharmacist
·Contraindication
·Drug interaction
·EudraVigilance
·Evidence-based medicine
·Food and Drug Administration (United States)
·Iatrogenesis
·List of withdrawn drugs
·Medical algorithm
·Medical error
·Medical prescription
·Nocebo
·Patient safety
·Perioperative mortality
·Pharmacotoxicology
·Pharmacovigilance
·Placebo
·Polypharmacy
·Responsible drug use
·Toxicology
Tài liệu tham khảo
1.Nguyễn Hữu Trường (2009). Tác dụng phụ của thuốc. Tạp chí sức khỏe và đời sống (Trung tâm Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng - BV Bạch Mai)
2.Drug Side Effects (2009). http://www.drugs.com/sfx/
3.Side effect (computer science). http://en.wikipedia.org/wiki/Side_effect_computer_science
4.Drug Side Effects (2010). http://www.drugwatch.com/side-effects/
5.Adverse Event Reporting System (AERS). http://www.fda.gov/Drugs/GuidanceComplianceRegulatoryInformation/Surveillance
6. http://ctep.info.nih.gov/protocolDevelopment/electronic_applications/ctc.htm#ctc_40_conversion