Sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục với đời sống còn nghèo nàn, lạc hậu đang ngầm hủy hoại dần những nỗ lực giải quyết tình trạng kinh tế thấp kém của hàng triệu phụ nữ, nam giới và trẻ em tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng cao, biên giới. Vấn đề này cần được toàn xã hội quan tâm.
Thực trạng
Theo định nghĩa được đưa ra trong Hội nghị Quốc tế về Dân số và Chương trình hành động phát triển, mục tiêu của việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục là đạt được “tình trạng khỏe mạnh toàn diện về mặt thể chất, tinh thần và xã hội trong mọi vấn đề liên quan đến hệ thống chăm sóc sức khỏe sinh sản và các chức năng của nó”. Sự thiếu thốn các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kể cả việc người dân không thể tiếp cận được với các biện pháp tránh thai thích hợp đã có tác động rất lớn đến sức khỏe nói chung và tình trạng kinh tế của cộng đồng. Các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, nhiễm khuẩn đường sinh sản cùng với vô số các tình trạng có liên quan đến những biến chứng trước và sau khi sinh đã đặt gánh nặng lên trên vai của từng người dân và gia đình họ; họ phải mất đi những khoản thu nhập kinh tế, phải chi trả cho các chi phí về sức khỏe và trong nhiều trường hợp phải đối mặt với tử vong. Thực trạng chưa đáp ứng được các điều kiện, nhu cầu về phòng tránh thai và không thể kiểm soát được việc sinh đẻ cũng đã góp phần tăng thêm gánh nặng này. Từ đây dẫn tới sự gia tăng các trường hợp mang thai ngoài ý muốn và khả năng làm tăng nguy cơ bị những biến chứng, rủi ro do phá bỏ thai không an toàn; đồng thời cũng đem đến hệ lụy việc sinh con ngoài ý muốn, đồng hành với khoản chi phí phải nuôi dưỡng con cái không có kế hoạch chuẩn bị. Bản chất có tính chu kỳ của vấn đề này đã ảnh hưởng đến những nhóm người có tình trạng sức khỏe sinh sản, sinh khỏe tình dục nghèo nàn. Do điều kiện kinh tế khó khăn, các đối tượng này chính là những người đã vướng mắc vào thực trạng sinh thêm con ngoài ý muốn.
Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai khá cao với dân số khoảng 60% khi điều tra cho biết có sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại. Tuy nhiên vẫn còn sự chênh lệch khác nhau giữa các khu vực. Sự nghèo đói là tình trạng phổ biến ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng cao, miền núi và biên giới với khoảng 45% dân số được cho là “nghèo”. Sự khác biệt về tình trạng kinh tế được phản ánh qua tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai. Ở khu vực đồng bằng sông Hồng, nơi có điều kiện kinh tế tốt thì tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai chiếm khoảng 59%. Đối với khu vực có điều kiện kinh tế nghèo khó hơn ở miền núi Tây Nguyên thì tỷ lệ này chỉ đạt khoảng 41,6%. Vấn đề này cho thấy cần có những biện pháp can thiệp tập trung. Tuy tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai có kết quả tương đối cao nhưng bị che khuất bởi một tỷ lệ nạo phá thai không tương xứng khi có tình trạng mỗi phụ nữ trong cuộc đời mình trung bình đã có nạo phá thai khoảng 2,5 lần; một tỷ lệ cao nhất thế giới theo báo cáo gần đây. Mặc dù thủ thuật nạo phá thai được xem là hợp pháp tại nước ta từ năm 1945, tuy nhiên sự bất bình đẳng giới vốn đã tồn tại từ lâu đời kết hợp với thành kiến tình dục trước hôn nhân và tình trạng các cơ sở y tế của nhà nước miễn cưỡng trong thực hiện thủ thuật nạo phá thai nên việc nạo phá thai không được thực hiện ở những môi trường bảo đảm sự an toàn, có kiểm soát về chất lượng kỹ thuật. Một hệ lụy đã xảy ra là người phụ nữ càng ngày càng tìm đến các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế tư nhân với mức giá chi phí không được kiểm soát và mức độ rủi ro không xác định được khi các cơ sở dịch vụ này không được nhà nước đào tạo về chuyên môn kỹ thuật và cung cấp ngân sách hoạt động một cách phù hợp.
Giải pháp
Việc nâng cao sự thu hút của các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình được cung cấp tại các cơ sở nhà nước và tư nhân là vấn đề cụ thể cần được giải quyết. Nhu cầu xuất phát từ vấn đề này là dịch vụ phải phù hợp với kế hoạch cải cách hệ thống y tế, đòi hỏi sự phân cấp về cung cấp các dịch vụ xuống cơ sở địa phương; dần dần chuyển từ hệ thống trả phí dịch vụ sang những mô hình công bằng và có thể bảo đảm được chất lượng dịch vụ tốt hơn. Ngoài ra, sự hiểu biết hạn chế về sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình trong cộng đồng người dân sẽ dẫn đến nhu cầu sử dụng dịch vụ thấp.
Trên thực tế nhận thức của người trưởng thành, đặc biệt là đối tượng vị thành niên có sự hiểu biết về sức khỏe sinh sản và các biện pháp tránh thai còn thấp. Các rào cản và thành kiến xã hội về sức khỏe sinh sản, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV trong cộng đồng cùng với thái độ thiếu tích cực của cán bộ y tế đã làm ảnh hưởng và nản lòng nhiều người đi tìm thông tin cũng như dịch vụ. Để giải quyết vấn đề này, các hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe tiến bộ dựa trên quyền của người dân cần được triển khai nhằm cung cấp những thông tin quan trọng tới cộng đồng theo những phương thức phù hợp về văn hóa. Biện pháp thực hiện là có cơ chế hợp tác chặt chẽ của các cơ sở y tế nhà nước và tư nhân tại những khu vực phát triển dịch vụ từ việc đánh gia nhu cầu ở cơ sở, thiết kế các chương trình tập huấn thích hợp cho cán bộ y tế kết hợp cùng với việc tạo ra mạng lưới ở những cơ sở mới để cung cấp dịch vụ; sự đóng góp này mang tính chất thực tế và lâu dài đối với công cuộc cải cách của ngành y tế.
Trong bối cảnh hiện nay, mặc dù các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục và kế hoạch hóa gia đình được cho là phù hợp nhưng khả năng chưa đủ số lượng để đáp ứng nhu cầu cần thiết thì việc tạo lập thêm mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ với các hoạt động can thiệp nhằm nâng cao năng lực chuyên môn có thể giúp chuẩn hóa việc cung cấp dịch vụ và bảo đảm chất lượng bằng cách đưa ra những điểm chuẩn rõ ràng trong phạm vi những tiêu chuẩn về chất lượng theo quy định. Để tuân thủ những tiêu chuẩn này, mạng lưới dịch vụ sẽ có thêm nhiều điều kiện, cơ hội học hỏi và hợp tác. Ngoài ra, các mạng lưới dịch vụ sẽ tác động tích cực đến hoạt động của các cơ sở thành viên. Các cơ sở dịch vụ tham gia vào mạng lưới sẽ làm nẩy sinh việc so sánh một cách tự nhiên giữa các thành viên, dẫn đến sự cạnh tranh và cải thiện dịch vụ trong hoạt động của các cơ sở được tốt hơn.
Ở những nơi cộng đồng người dân có sự hiểu biết về lợi ích của việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, kế hoạc hóa gia đình còn thấp do hạn chế về trình độ học vấn hoặc có sự hiểu biết nhầm lẫn thì các chiến dịch truyền thông giáo dục sức khỏe cần được thực hiện một cách cụ thể bằng nhiều hình thức, nhiều kênh khác nhau đến tận các cơ sở để tạo điều kiện cho người dân nâng cao nhận thức, tự ra quyết định để chuyển đổi hành vi, thay đổi các điều kiện xã hội, những rào cản lớn nhất đối với sự thu hút của dịch vụ. Các hình thức giao tiếp dựa trên tính phổ biến, sự phù hợp với những vấn đề đã xảy ra trên thực tế và những câu chuyện có thật trong đời thường sẽ làm cho cộng đồng người dân thoải mái, dễ dàng đón nhận hơn. Trong các tài liệu truyền thông giáo dục sức khỏe, một nội dung không thể thiếu là cung cấp những thông tin về địa điểm tiếp cận dịch vụ, từ đó sẽ tác động hiệu quả đến việc tạo được nhu cầu sử dụng dịch vụ cần thiết.
Để góp phần đạt được Mục tiêu số 5 của Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ là giảm tỷ lệ tử vong của bà mẹ tại các khu vực nông thôn và những vùng xa xôi hẻo lánh của Việt Nam, các giải pháp hoạt động phải hướng đến mục tiêu đóng góp vào việc xóa đói giảm nghèo thông qua các hoạt động tiến bộ, tích cực trong công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục và kế hoạch hóa gia đình của mỗi khu vực, mỗi quốc gia.