Ngày 24/2/2014-Một trong 3 người lớn không hoạt động thể lực đầy đủ để duy trì sức khỏe tố, hơn 3 triệu người chết mỗi năm vì họ không hoạt động đầy đủ. Hoạt động thể lực thường xuyên có thể làm giảm nguy cơ bệnh tim, tiểu đường, trầm cảm, bệnh ung thư vú và đại tràng. Trong trang tin mới này, WHO khuyến cáo rằng người lớn thực hiện ít nhất 150 phút mỗi tuần dành cho hoạt động thể lực với cường độ vừa phải như đi bộ, đi xe đạp, làm việc nhà hoặc chơi thể thao.
Hoạt động thể lực là gì ? (What is physical activity?
WHO xác định hoạt động thể lực như là bất kỳ sự chuyển động nào của cơ thể được tạo ra bởi cơ xương đòi hỏi phải tiêu hao năng lượng bao gồm cả các hoạt động thực hiện trong khi làm việc, chơi, thực hiện các công việc gia đình, đi du lịch và tham gia vào các mục đích giải trí.Thuật ngữ "hoạt động thể lực" (physical activity) không nên nhầm lẫn với "tập thể dục" (exercise), mà đó là một tiểu thể của hoạt động thể lực được lên kế hoạch, cấu trúc, lặp đi lặp lại nhằm mục đích cải thiện hoặc duy trì một hoặc nhiều thành phần của thể dục thể chất. Cả cường độ hoạt động thể lực vừa phải và mạnh mẽ mang lại lợi ích sức khỏe. Cường độ của các hình thức hoạt động thể lực khác nhau giữa con người, để có lợi cho sức khỏe tim mạch, tất cả các hoạt động phải được thực hiện trong một đợt ít nhất trong thời gian 10 phút. WHO khuyến cáo vớitrẻ em và thanh thiếu niên 60 phút mỗi ngày cho các hoạt động thể lực từ cường độ trung bình đến cường độ mạnh; với người lớn (trên 18 tuổi)150 phút hoạt động với cường độ vừa phải mỗi tuần.
Lợi ích của hoạt động thể lực (Benefits of physical activity)
Hoạt động thể lực thường xuyên với cường độ vừa phải chẳng hạn như đi bộ, đi xe đạp hoặc chơi thể thao có lợi ích đáng kể cho sức khỏe. Ở tất cả các lứa tuổi, các lợi ích của vận động cơ thể lớn hơn thiệt hại tiềm năng, ví dụ thông qua tai nạn. Một số hoạt động thể lực là tốt hơn so với không làm gì bằng cách trở nên chủ động hơn trong suốt cả ngày theo những cách tương đối đơn giản, mọi người có thể khá dễ dàng đạt được các mức độ hoạt động được khuyến cáo. Mức độ thường xuyên và đầy đủ các hoạt động thể lực: cải thiện sức khỏe tim mạch và cơ bắp; cải thiện xương và chức năng y tế; giảm nguy cơ tăng huyết áp, bệnh mạch vành, đột quỵ, tiểu đường, ung thư vú và ung thư ruột kết và chứng trầm cảm; giảm nguy cơ té ngã cũng như gãy xương hông hay cột sống và là nền tảng cho sự cân bằng năng lượng và kiểm soát cân nặng.
Nguy cơ của hoạt động thể lực (Risks of physical inactivity)
Bất hoạt thể lực (physical inactivity) là yếu tố nguy cơ đứng hàng thứ tư gây ra tử vong trêntoàn cầu và chiếm 6% của tất cả các trường hợp tử vong. Nó chỉ đứng sau huyết áp cao (13%) và sử dụng thuốc lá (9%) và có nguy cơ tương đương như đường huyết cao (6%). Khoảng 3,2 triệu người chết mỗi năm vì họ không hoạt động đầy đủ. Bất hoạt thể lực đang gia tăng ở nhiều nước, thêm vào gánh nặng của các bệnh không lây nhiễm và ảnh hưởng đến sức khỏe nói chung trên toàn thế giớ. Những người hoạt động không đầy đủ có nguy cơ gia tăng tử vong từ 20% đến 30 % so với những người tham gia vào ít nhất 30 phút với cường độ hoạt động thể lực vừa phải hầu hết các ngày trong tuần. Bất hoạt thể lực là nguyên nhân chính cho khoảng 21-25% của ung thư vú và đại tràng; 27% bệnh tiểu đường; 30% bệnh tim thiếu máu cục bộ.
Lý do không hoạt động thể lực (Reasons for physical inactivity)
Mức độ bất hoạt thể lực tăng trên toàn cầu khoảng 31% người trưởng thành trên 15 tuổi không hoạt động đủ trong năm 2008 (nam giới 28% và phụ nữ 34%). Ở các nước có thu nhập cao, 41% nam giới và 48% phụ nữ không hoạt động đủ thể lực so với 18% nam giới và 21% phụ nữ ở các nước có thu nhập thấp. Mức độ hoạt động thể lực thấp hoặc giảm thường tương ứng với tổng sản phẩm quốc gia cao hoặc tăng. Sự sụt giảm trong hoạt động thể lực một phần là do không hành động trong thời gian giải trí và hành vi ít vận động trong công việc và ở nhà. Tương tự như vậy, sự gia tăng trong việc sử dụng phương thức vận tải "thụ động" (passive) cũng góp phần vào bất hoạt thể lực. Một số yếu tố môi trường được liên kết với đô thị hóa có thể không khuyến khích con người trở nên năng động hơn, chẳng hạn như sợ bạo lực và tội phạm trong khu vực ngoài trời (fear of violence and crime in outdoor areas), giao thông mật độ cao (high-density traffic), ô nhiễm và chất lượng không khí thấp (low air quality, pollution); thiếu công viên, vỉa hè và các cơ sở thể thao/giải trí (lack of parks, sidewalks and sports/recreation facilities).
Làm thế nào để tăng hoạt động thể lực ? (How to increase physical activity?)
Cả xã hội nói chung và cá nhân có thể có hành động để tăng cường hoạt động thể lực, vào năm 2013 các nước thành viên của WHO đã đồng ý giảm bất hoạt động thể lực 10% trong khuôn khổ "Kế hoạch hành động toàn cầu về phòng chống và kiểm soát các bệnh không lây nhiễm giai đoạn 2013-2020" (Global Action Plan for the Prevention and Control of Noncommunicable Diseases 2013-2020). Chính sách và kế hoạch để giải quyết hoạt động thể lực đã được phát triển trong khoảng 80% các nước thành viên của WHO, mặc dù đây là những hoạt động chỉ có 56% các nước. Chính quyền quốc gia và địa phương cũng đang áp dụng chính sách trong nhiều lĩnh vực để thúc đẩy và tạo thuận lợi cho hoạt động thể lực. Chính sách gia tăng hoạt động thể lực nhằm mục đích đảm bảo rằng đi bộ, đi xe đạp và các hình thức giao thông vận tải chủ động là có thể tiếp cận và an toàn cho tất cả; chính sách lao động và nơi làm việc khuyến khích hoạt động thể lực; trường có các khoảng trống an toàn và tiện nghi cho sinh viên dành nhiều thời gian rãnh rỗi một cách tích cực; giáo dục thể lực chất lượng (QPE) hỗ trợ trẻ phát triển mô hình hành vi mà sẽ giữ cho chúng hoạt động thể lực trong suốt cuộc đời và thể thao và các cơ sở vui chơi giải trí cung cấp cơ hội cho tất cả mọi người chơi thể thao.
Đáp ứng của Tổ chức Y tế thế giới (WHO response)
"Chiến lược toàn cầu về chế độ ăn, hoạt động thể lực và sức khỏe" (Global Strategy on Diet, Physical Activity and Health) được thông qua bởi Đại Hội đồng Y tế Thế giới vào năm 2004, mô tả các hành động cần thiết nhằm tăng cường hoạt động thể lực trên toàn thế giới. Chiến lược kêu gọi các bên liên quan phải hành động ở cấp độ toàn cầu , khu vực và địa phương để tăng cường hoạt động thể lực. “Khuyến nghị toàn cầu về hoạt động thể lực cho sức khỏe" (Global Recommendations on Physical Activity for Health) được công bố bởi WHO trong năm 2010, tập trung vào phòng ngừa ban đầu của NCDs thông qua hoạt động thể lực. Bản khuyến nghị đề xuất lựa chọn chính sách khác nhau để đạt các mức khuyến cáo về hoạt động thể lực trên toàn cầu, chẳng hạn như phát triển và thực hiện các hướng dẫn quốc gia cho hoạt động thể lực nâng cao sức khỏe; lồng ghép hoạt động thể lực trong lĩnh vực chính sách có liên quan khác, để đảm bảo rằng các chính sách và kế hoạch hành động là chặt chẽ và bổ sung; sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng để nâng cao nhận thức về lợi ích của vận động cơ thể; giám sát và theo dõi các hành động để thúc đẩy hoạt động thể lực.
Để đo lường hoạt động thể lực, WHO đã phát triển bộ câu hỏi về các hoạt động thể lực toàn cầu (Global Physical Activity Questionnaire_GPAQ). Câu hỏi này sẽ giúp các nước theo dõi tình trạng bất hoạt thể lực là một trong những yếu tố nguy cơ chính với các bệnh không lây nhiễm (NCD). Trong năm 2013, Đại Hội đồng Y tế thế giới đã nhất trí về một tập hợp các mục tiêu tự nguyện toàn cầu trong đó bao gồm việc giảm 25% tỷ lệ tử vong sớm do NCDs và giảm 10% tình trạng bất hoạt thể lực vào năm 2025. "Kế hoạch hành động toàn cầu về Phòng chống và kiểm soát các bệnh không lây nhiễm giai đoạn 2013-2020" (Global Action Plan for the Prevention and Control of Noncommunicable Diseases 2013-2020) hướng dẫn các quốc gia thành viên, WHO và các cơ quan khác của LHQ về cách để đạt được hiệu quả các mục tiêu này. Cùng với UNESCO, WHO đang phát triển một gói chính sách Giáo dục thể lực có chất lượng (Quality Physical Education_QPE). Gói chính sách QPE nhằm mục đích nâng cao chất lượng giáo dục thể lực trên toàn thế giới và làm cho nó có sẵn với tất cả mọi người.