Trong điều kiện tự nhiên, bên cạnh những mầm bệnh của cố thủ riêng con người như ký sinh trùng sốt rét, giun sán, amoeba,…còn đó đây những sinh vật chẳng phát triển, gây bệnh được trên loài người, mà còn sống và gây bệnh được trên nhiều loài động vật khác. Sống trong cùng một môi trường mối liên hệ giữa con người - môi trường - động vật sẽ có nhiều cơ hội truyền bệnh cho nhau là lẽ tất nhiên, chẳng qua điều đó còn tùy thuộc vào thời gian mà mầm bệnh từ động vật (có thể là vật nuôi cũng có thể là động vật hoang dại) đến khi nào thích nghi với điều kiện sống trên con người mới là thời điểm để các nhà khoa học lên tiếng cảnh báo, có lẽ khi đó đã hơi muộn để chúng ta tập trung nghiên cứu. Có khá nhiều vùng trên thể giới bị cùng lúc nhiều đại dịch, ổ dịch, vụ dịch với 1, 2, 3, 4 hoặc 5, 6 bệnh cùng một lúc, nên tính chất có thể đe dọa đến sức khỏe rất lớn cho loài người.
Tổ chức Y tế thế giới (1967) đã định nghĩa bệnh động vật (zoonosis) là những bệnh nhiễm trùng được truyền từ động vật có xương sống sang người trong điều kiện tự nhiên và ngược lại (Zoonoses: “Those diseases and infections which are naturally transmitted between vertebrate animals and man.”). Chính điều kiện sống gần gũi và thân thiện, thói quen nuôi thú cưng, nuôi thả rông, …cùng với sự thay đổi về điều kiện vi khí hậu toàn cầu cũng như hiện tượng El Nino và La Nina đã khiến cho mầm bệnh có điều kiện phát triển và bùng phát nhanh thành các đại dịch, vụ dịch lớn nhỏ khác nhau trên các quốc gia trên thế giới như dịch hạch, dịch cúm gia cầm, dịch SARS, Monkeypox, …cũng như một số bệnh lý nghiêm trọng ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe nhân loại. Nhìn nhận, tác hại của vấn đề liên đới bệnh không dừng lại và có nguy cơ lan rộng trước khi có biện pháp can thiệp hữu hiệu. Tổ chức Y tế thế giới đã phối hợp với tổ chức Lương nông thế giới (FAO) và Đơn vị giám sát các bệnh lây truyền của động vật (CSR) tại khu vực Tây Thái Bình Dương, cũng như tại Việt Nam tổ chức Hội thảo Các bệnh lây truyền từ động vật truyền sang người vào ngày 28/12/2008 tại Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh.
Đến tham dự, chủ trì và báo cáo các chuyên đề, đề tài và tổng kết về tình hình một số bệnh truyền nhiễm từ động vật lây sang người gồm có lãnh đạo và các chuyên viên của Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh, đại diện Cục Y tế dự phòng và môi trường, Bộ Y tế Việt Nam; bà Bee Lee Ong, chuyên gia dịch tễ học về bệnh động vật thuốc đơn vị giám sát các bệnh truyền nhiễm lây sang người (Communicable disease Surveillance and Response) của cơ quan WHO Tây Thái Bình Dương tại Manila (WHO/PRO), đại diện của tổ chức FAO tại Việt Nam, các chuyên gia bệnh truyền nhiễm ở động vật và người đến từ Mỹ, bệnh viện nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh, Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên, Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn, Trung tâm thú y vùng Cần Thơ, các Chi cục thú y các tỉnh khu vực Nam Bộ Lâm Đồng cùng các đại biểu phần lớn là các nhà quản lý Chương trình phòng chống dịch bệnh biên giới, trung tâm thú y của tỉnh nhà, các chuyên gia điều trị và giám sát dịch bệnh,…
Tham gia và báo cáo khoa học tại hội thảo, Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn gồm có tiến sĩ Hồ Văn Hoàng, Phó viện trưởng, Trưởng khoa dịch tễ; dược sĩ Huỳnh Bình Phước, Trưởng phòng Quản lý khoa học và công nghệ; thạc sĩ Huỳnh Hồng Quang, Trưởng khoa nghiên cứu lâm sàng. Nội dung trình bày tại hội thảo phần lớn tập trung vào các chuyên đề: tình hình dịch tễ các bệnh truyền nhiễm của động vật lây sang người trên thế giới và tại Việt Nam (virus H5N1, liên cầu lợn, bệnh bò điên, cúm gia cầm với các type khác nhau, bệnh Nipah, bệnh Monkeypox, bệnh sán lá gan lớn và một số bệnh do đơn bào, vi khuẩn, virus khác). Điểm nhấn của hội thảo này chính là dành phần lớn thời gian thảo luận về tầm quan trọng trong việc phối hợp liên ngành (lấy ví dụ tại một số quốc gia đã đạt hiệu quả tốt) trong công tác phòng chống dịch bệnh lây truyền từ động vật sang người trong quá khứ, hiện tại và tương lai; cải cách hệ thống giám sát hiện tại và tiếp tục đề xuất lập một quy chế chia sẻ thông tin giữa các ngành, đặc biệt thú y và y tế (chẳng hạn hợp tác về mặt dịch tễ trong theo dõi các vụ dịch; đào tạo mảng dịch tễ học thực địa, hệ thống giám sát cổ điển và hiện đại; tăng nhu cầu nâng cao năng lực trong kế hoạch dài hạn tại các tuyến quốc gia..
Nhằm đạt được kết quả cho Hội thảo, các chuyên gia cũng đã vạch ra được một số nét chính và cùng nhau thảo luận về các khía cạnh sau:
1. Đề cập đến 5 mục tiêu của Chiến lược phòng chống bệnh dịch đang nổi tại châu Á Thái Bình Dương (APSED_ Asia Pacific Strategy for Emerging Diseases) là: [1] Giảm nguy cơ các bệnh truyền nhiễm đang nổi; [2] Tăng cường phát hiện sớm các vụ dịch; [3] Tăng cường đáp ứng kịp thời; [4] Chuẩn bị sẵn sàng ứng cứu; [5] Phát triển hợp tác kỹ thuật lâu dài trong vùng châu Á-Thái Bình Dương;
2. Sự cần thiết của hợp tác liên ngành trong khống chế các bệnh lây truyền từ động vật, các chuyên gia đưa ra rằng:
· Bệnh lây truyền động vật đã tác động xấu đến cuộc sống của chúng ta (về kinh tế, dân số, sinh kế);
· Ngành y tế một mình không thể giải quyết các vấn đề do bệnh lây truyền từ động vật; ngành y tế và thú y cần cùng nhau làm việc và cùng nhau tham gia vào các vấn đề động vật hoang dã, môi trường;
· Thuận lợi là cùng nhau hợp lực hành động, tận dụng tối đa nguồn lực, tăng hiệu suất và tránh các công việc chồng chéo nhau;
· Các chuyên gia cũng đưa ra thực tế hiện nay là rất ít quốc gia nào có quy chế, chức năng và ổn định giữa 2 ngành y tế và thú y;
3. Đưa qua hướng dẫn chung với mục tiêu là thiết lập một quy chế phối hợp chức năng và ổn định giữa 2 ngành thú y và y tế tại các tuyến về kiểm soát các bệnh lây truyền từ động vật sang người. Hướng dẫn này có 4 phần:
· Phần I: Qui trình lập quy chế phối hợp liên ngành: đây là quy chế để điều phối các hoạt động hợp tác trong 3 lĩnh vực;
· Phần II: giám sát và chia sẻ thông tin, trong đó mỗi ngành cần trình bày năng lực và hệ thống giám sát hiện có, phân công cán bộ chịu trách nhiệm, xác định các sự kiện, vụ việc nào cần chia sẻ thông tin, xác định các vấn đề nhạy cảm có thể phát sinh và cuối cùng là xây dựng quy trình bằng văn bản (thách thức chủ yếu là chia sẻ thông tin và quản lý các thông tin mật);
· Phần III: phối hợp đáp ứng, nghĩa là cần đề ra tiêu chí đáng báo động để liên ngành phối hợp triển khai, đáp ứng một cách thích đáng, thống nhất công cụ để đánh giá nguy cơ, lập quy chế liên ứng về phối hợp đáp ứng;
· Phần IV: Giảm nguy cơ, hoạt động phối hợp nhằm làm giảm nguy cơ lây truyền chung cho động vật và người. Biện pháp gồm gia tăng nhận thức, tập huấn, cung cấp và hướng dẫn sử dụng trang bị phòng hộ cá nhân, tôn trọng luật lẫn nhau,…
4. Từ đó đề xuất các hành động: phân công người chủ trì của hai ngành để cùng nhau làm việc, thảo luận ban đầu giữa những người đầu mối, tích cực ủng hộ và đề ra mục tiêu của sự phối hợp, có sự đồng thuận giữa hai ngành, trình bày thực trạng hệ thống/ tổ chức hiện có của 2 ngành; xác định và thống nhất phạm vi phối hợp, xác định phương thức của quy chế phối hợp tại các quốc gia, thảo luận và thống nhất về chức năng và cơ cấu tổ chức của Ủy ban phối hợp cấp quốc gia, xác định các thành phần (thư ký, hoạt động,…) xây dựng chính sách và các hỗ trợ về pháp luật;
5. Các chọn lựa phối hợp, đối với các nước đã có ủy ban quốc gia về một bệnh lây truyền từ động vật, thì nên:
· Tìm hiểu khả năng mở rộng phạm vi của hệ thống hiện có để kiểm soát các bệnh lưu hành khác và các bệnh lây truyền từ động vật đang nổi;
· Xây dựng quy trình cho các quy chế phối hợp;
· Chính thức hóa quy chế phối hợp;
· Cuối cùng kiểm tra và diễn tập quy chế phối hợp.
6. Nếu các nước chưa có Ủy ban quốc gia nên lập mới một Ủy ban quốc gia với các phạm vi công việc:
· Bảo đảm việc hướng dẫn và gắn kết 2 ngành trong định hướng của kế hoạch quốc gia về phòng chống các bệnh lây truyền từ động vật;
· Đề ra chiến lược tập trung và triển khai kế hoạch hành động đã thống nhất;
· Bảo đảm sự hợp tác giữa 2 ngành thông qua phối hợp hành động và trao đổi tư vấn cũng như hỗ trợ ở mọi thời điểm;
· Đề ra chính sách vĩ mô và tư vấn chiến lược cho từng Bộ Y tế và nông nghiệp của các quốc gia.
7. Những bài học kinh nghiệm:
· Cả hai ngành cần tiếp tục nâng cao năng lực của hệ thống hiện hữu của ngành mình và sử dụng khung chung về bệnh lây truyền từ động vật, qua đó tăng cường hợp tác giữa thú y và y tế thông qua quy chế phối hợp;
· Tận dụng nguồn lực sẵn có;
· Mỗi ngành cần phải tôn trọng người được ủy quyền, và vai trò trách nhiệm của từng ngành;
· Quy chế phối hợp về cúm gia cầm và bệnh dại là nền tảng và có thể nhân rộng ra cho các bệnh khác;
· Cần có chính sách và hướng dẫn cụ thể để hỗ trợ quy chế và không quên xác định nguồn tài chính.
8. Những thách thức chính:
· Tiến trình xây dựng quy chế phối hợp giữa ngành thú y và y tế sẽ tốn nhiều thời gian vì cần có sự hợp tác giữa 2 ngành;
· Các nước có cúm gia cầm cần hợp tác thêm về các bệnh khác cũng lây từ động vật.